Thích Hạnh Bình
PHẦN 3
ĐỜI SỐNG NGƯỜI XUẤT GIA
dưới thời đức Phật còn tại thế
Là người Phật tử của xã hội ngày nay, bất cứ ai cũng biết trong Phật giáo có nhiều tông phái và nhiều hình thức tu tập khác nhau. Như là thiền tông thì tu thiền định, tịnh độ tông tu pháp môn niệm Phật, mật tong tu pháp môn niệm thần chú.v.v… Bài viết này tôi không giới thiệu thiền tông hay mật tông, cũng không giới thiệu pháp môn niệm Phật của tịnh độ tông, mà giới thiệu về đời sống và phương pháp tu tập của tăng đoàn trong Phật giáo Nguyên thủy.
Phật giáo Nguyên thủy là giai đoạn Phật giáo tính từ khi đức Thế Tôn thành đạo dưới cội cây bồ đề cho đến khi Phật pháp chưa bị phân chia, tăng già còn hòa hợp. Điểm đặc trưng của thời kỳ này: mục đích của người xuất gia là giác ngộ và giải thoát, nội dung giáo lý lấy 37 phẩm trợ đạo làm trung tâm, lấy bốn niệm xứ làm phương tiện tu tập, với đời sống vô gia cư, mang bình bát vào thôn xóm khất thực, và trở về sống trong rừng núi, xa cách thị thành, không bàn luận những vấn đề siêu hình.
Qua đó chúng ta thấy, giữa hệ thống giáo lý, mục đích xuất gia và hoàn cảnh sống của người xuất gia có mối quan hệ biện chứng logic, không giống như Phật giáo ngày nay là cường điệu quan điểm ‘độ sinh’, nhưng vấn đề ‘tự độ’ là cơ sở cho ‘độ sinh’ thì lại buông thả, dẫn đến tình trạng phức tạp trong Phật giáo, đôi lúc có nhiều sinh hoạt không liên hệ gì đến mục đích giác ngộ và giải thoát của Phật giáo.
Với nội dung bài viết này, tác giả muốn gợi ý cho độc giả hiểu được thế nào gọi là tu tập, và nguyên tắc tu tập dưới thời đức Thế Tôn chỉ dạy như thế nào. Chúng ta có thể lấy đó làm cuộc so sánh để hiểu những gì chúng ta đang làm có phù hợp với Phật pháp không. Nói như vậy, không phải ngụ ý rằng chỉ có hình thức này là đúng, hình thức khác là sai mà chỉ nhằm mục đích ‘ôn cố tri tân’, lấy chuyện xưa để biết chuyện nay, làm thước đo cho chúng ta hiểu được chính mình đang làm gì, và việc làm đó có ý nghĩa gì.
Cuộc sống luôn luôn đổi thay, nhận thức con người cũng theo đó thay đổi, vì vậy không thể có một hình thức tu tập cố định nào làm tiêu chuẩn cho mọi thời đại. Hình thức sinh hoạt cũng như phương pháp tu tập trong Phật giáo mang tính 'tùy thời tùy cơ', có nghĩa là tùy theo thời đại và căn cơ của chúng sanh mà Phật pháp thiết lập hình thức cụ thể để giáo hóa. Điều đó có nghĩa là với thời đại này xã hội này con người này, hình thức sinh hoạt hay phương pháp tu tập này là hợp lý, nhưng với thời đại khác xã hội khác con người khác thì hình thức này chưa chắc đã phù hợp, đôi khi phản tác dụngnữa là khác. Nhưng cho dù hình thức nào, điều quan trọng là trong đó phải ẩn chứa khuynh hướng giác ngộ và giải thoát. Bằng ngược lại, cho dù sinh hoạt dưới hình thức tu tập nào, nhân danh là tông phái nào vẫn là vô ý nghĩa với đạo Phật. Quan điểm này, chúng ta không chỉ thấy trong kinh điển của Phật giáo Đại thừa mà ngay cả trong kinh điển Nikàyahay A Hàm (Àgama). Do vậy, với nội dung bài viết này, tác giả không có ý phê phán những hình thức sinh hoạt hay pháp tu tập nào trong Phật giáo, mà chỉ muốn nói một điều thử xem những mà mình đang tu tập đó có chứa đựng sự giác ngộ và giải thoát không?
Giới thiệu về “Đời sống người xuất gia dưới thời Phật còn tại thế” là đề tài gợi ý để mỗi người chúng ta tự so sánh, biết được sự dị biệt giữa những gì trong quá khứ và hiện tại, nhằm giúp cho chúng ta hiểu được đâu là tinh thần giáo dục và đâu là hình thức giáo dục của đức Phật, từ đó chúng ta rút ra nhiều bài học quí giá từ quá khứ, đồng thời nó sẽ giúp cho chúng ta vững tâm hình thành một mô hình sinh hoạt, một phương pháp tu tập phù hợp với đời sống hiện tại ở xã hội mà chúng ta đang sống, và cũng từ đó định hướng cho một loại hình sinh hoạt trong tương lai, chúng ta sẽ cảm thấy không bỡ ngỡ trước sự thay đổi hình thức. Có được sự nhận thức như vậy, cuộc sống tu tập hằng ngày của chúng ta mới thật sự có hạnh phúc và an lạc. Với tinh thần đó, tôi sẽ cố gắng giới thiệu về đề tài này ngang qua các kinh điển Nikàya và A Hàm.
1.Mục đích của đời sống phạm hạnh
Nếu chúng ta nghiên cứu kỹ hai hệ thống kinh điển Nikaya và A Hàm, hai nguồn tư liệu này đều ghi rằng, những người xuất gia trong thời này chỉ có mục tiêu hướng đến là giác ngộ và giải thoát. Quan niệm hoằng pháp độ sanh, nếu có đi chăng nữa cũng rất là mờ nhạt, không phải là yếu tố quan trọng của người xuất gia trong thời kỳ này. Điều đó mang một ý nghĩa đặc thù muốn nói rằng, người xuất gia là những người tự xác định chính mình là những người còn nhiều khổ đau và phiền muộn, do vậy muốn xuất gia để được giác ngộ và giải thoát những khổ đau đó, không phải xuất gia vì mục đích để hoằng dương Phật pháp, cứu độ chúng sanh. Nếu có ý nguyện độ sanh đi chăng nữa, nó cũng chỉ xuất hiện sau khi xuất gia, trải qua thời gian tu tập, thành tựu được giới, thành tựu thiền định và trí tuệ xong, vị ấy mới phát nguyện độ sanh, hoặc tối thiểu là vị ấy phải hiểu rõ giáo lý của đức Phật, sau đó mới phát nguyện đem Phật pháp vì người khác giảng dạy. Nếu không có kinh nghiệm tu tập, Phật pháp lại không hiểu làm sao có thể hoằng dương Phật pháp hoặc cứu độ chúng sanh, làm sao có thể giúp đỡ người khác khi mà tự thân mình không có gì để giúp? Nếu không biết cách mà cứ làm thì cách hoằng dương Phật pháp này vô cùng nguy hiểm, không những có hại cho bản thân mà còn làm tổn thương đến Phật pháp.
Thật ra tinh thần ‘lợi tha’ hay ‘giáo hóa chúng sanh của Phật giáo Đại thừa được xây dựng trên nguyên tắc là người đã giác ngộ, tức là các vị Bồ tát (Bodhisattva) phải có lòng từ bi và trí tuệ. Có một số người không nắm được nguyên tắc này, vội vã hành Bồ tát đạo, cho nên trong Phật giáo đã xảy ra những hiện tượng không phù hợp với chánh pháp. Ví dụ có một số người sau khi xuất gia vội vàng thọ giới, nhưng không trải qua thời gian huấn luyện nếp sống của người phạm hạnh, không học tập Phật pháp, vội vã xây dựng cơ sở tôn giáo, hoặc thành lập cơ sở từ thiện xã hội, nhằm thực thi tinh thần 'độ tha', trong khi đó bổn phận và trách nhiệm của người xuất gia là giác ngộ giải thoát dường như quên mất, thậm chí Phật pháp cũng chẳng biết gì, ngang nhiên tự cho mình là người làm hạnh của người xuất gia, thực thi Bồ tát hạnh, cứu giúp chúng sanh. Thật đáng buồn thay cho tinh thần Bồ tát hạnh của Phật giáo Đại thừa đã và đang bị lạm dụng một cách bữa bãi và vô ý thức. Đây là điểm mà các nhà lãnh đạo Phật giáo cần phải suy nghĩ và tìm cách ngăn chận.
Với mục đích xuất gia, tìm cầu sự giác ngộ và giải thoát, cho nên đức Phật đã hướng dẫn các đệ tử xuất gia của mình sống đời sống vô gia cư, tránh xa nơi thị thành ồn ào náo nhiệt, tìm nơi thanh vắng như là rừng núi, bãi tha ma, hoặc nơi đồng trống để tu tập thiền định, quán chiếu thân này là giả tạm, thế gian là vô thường, đồng thời lấy tinh thần 'thiểu dục tri túc' làm nguyên tắc cho cuộc sống tu tập. Có lẽ chính vì cuộc sống này cho nên đức Phật đã qui định cho một vị xuất gia cần phải có ba điều kiện cơ bản để bảo vệ đời sống: Một là y -là y phục tỷ kheo. Hai là bình bát - là vật dụng cần thiết cho vị tỷ kheo đi khất thực. Ba là đồ lọc nước - là vật dụng cần thiết cho vị tỷ kheo khi sống đời sống di cư trong rừng núi, gặp nước không sạch cần phải thanh lọc cho sạch trước khi uống. Ba điều kiện này có thể nói là ba điều kiện rất hữu ích và hợp lý với đời sống di cư trong rừng núi ở thời đại đức Phật còn tại thế, nhưng nó không còn thích nghi với cuộc sống định cư, nhất là đời sống ở thời đại chúng ta. Cuộc sống này, vốn không phải riêng chỉ có Phật giáo mà hầu hết những người thực thi đời sống xuất gia của các tôn giáo khác cũng đều sống như vậy. Có lẽ đức Phật nhận thấy cuộc sống này thật sự giúp ích cho người xuất gia mau thành đạt mục tiêu giác ngộ và giải thoát, cho nên đức Phật xem đó như là nguyên tắc sống cho người xuất gia trong xã hội thời bấy giờ, vì nó có giá trị huấn luyện cho người mới vừa từ đời sống gia đình sang sống không gia đình, là cuộc sống ly dục. Đời sống tịch mịch trong rừng núi, cách ly gia đình, từ bỏ hưởng thọ những dục lạc thế gian là phương pháp cần thiết và thích đáng cho người mới xuất gia, đã được đức Phật tán thán như ‘Kinh Sợ Hãi và Khiếp Đảm’ (Bhayabheravasutta) số 4, ‘Kinh Khu Rừng’ (Vanapatthasutta).v.v...trong “Kinh Trung Bộ”.
Đức Phật cho rằng, sinh hoạt trong rừng núi của người xuất gia, nhằm mục đích giúp cho hành giả mau thành đạt thánh quả, chứ không mang ý nghĩa chỉ có cuộc sống rừng núi mới có sự giác ngộ và giải thoát. Trên nguyên tắc chung, bất cứ cuộc sống nào dù là trong rừng núi hay trong gia đình cũng có thể mang lại giác ngộ và giải thoát, với điều kiện không bị nhiễm ô bởi các dục vọng của thế gian, đoạn trừ vô minh.
Nhưng nếu chúng ta căn cứ bản tánh tham lam của con người thì đời sống rừng núi là điều kiện tốt nhất, giúp ta mau chóng từ bỏ các loại ham mê về vật chất. Có lẽ đó là lý do tại sao trong 'Kinh Thừa Tự Pháp' (Dhammadàyàda sutta) trong "Kinh Trung Bộ" tập 1, đức Phật dạy các Tỷ kheo rằng:
Này các Tỷ-kheo, hãy là người thừa tự Pháp của Ta, đừng là những người thừa tự tài vật. Ta có lòng thương tưởng các Ngươi và Ta nghĩ: "Làm sao những đệ tử của Ta là những người thừa tự Pháp của Ta, không phải là những người thừa tự tài vật?". Và này các Tỷ-kheo, nếu các Ngươi là những người thừa tự tài vật của Ta, không phải là những người thừa tự Pháp, thì không những các Ngươi trở thành những người mà người ta nói: "Cả thầy và trò đều là những người thừa tự tài vật, không phải là những người thừa tự Pháp", mà cả Ta cũng trở thành người mà người ta nói: "Cả thầy và trò đều là những người thừa tự tài vật, không phải là những người thừa tự Pháp.
Mặc dù trong thời gian đức Phật còn tại thế, những vật dụng mà chư tăng và đức Phật sở hữu chỉ đơn giản chỉ là y, bát, đồ lọc nước và tọa cụ, nhưng căn cứ lòng tham lam của con người và sự phát triển của Phật giáo, đức Phật dự đoán trong tương lai, khi sinh hoạt của Phật giáo trở thành định cư, những vật dụng cần thiết cho đời sống này cũng tùy theo đó mà tăng trưởng, như vậy thật khó cho vị xuất gia thoát khỏi miếng mồi của vật dục, Phật pháp cũng tùy theo đó mà suy tàn, ánh sáng của chánh pháp cũng vì vậy mà dần dần bị lu mờ, không những làm hại chính mình mà còn làm tổn hại cho đạo pháp, làm thương tổn thanh danh đức Phật. Có lẽ đó chính là lý do tại sao đức Phật đã thuyết giảng bài pháp này.
Ngài Xá lợi Phất (Sriputta) giải thích Khổ đế trong giáo lý Tứ đế bao gồm 8 loại khổ, ngoài 5 loại khổ đầu là sanh, lão, bệnh, tử, và ngũ ấm xí thạnh khổ là 5 loại khổ tự nhiên của con người, bất cứ ai cũng có, ngay cả người đã chứng đắc thánh quả. Cầu bất đắc khổ, oán tắng hội khổ và ái biệt ly khổ là những nỗi khổ thuộc về tâm lý. Nguồn gốc của 3 loại khổ đau này là do vô minh, vì vô minh cho nên con người không biết lại mong cầu những gì vượt ngoài tầm tay. Vì vô minh mà con người không chấp nhận những gì mà con người đang có, vì vô minh mà con người không hài lòng những gì mà nó không còn đủ yếu tố để tồn tại. Cái gì do vô minh tạo thành, cái ấy là nguyên nhân của khổ, muốn diệt trừ cái khổ ấy, phải từ diệt trừ vô minh, có nghĩa là lấy trí tuệ để diệt trừ vô minh, đây là nguyên tắc cơ bản trong đạo Phật.
Điều này mang ý nghĩa khá sâu sắc rằng, đạo Phật nói đến việc cứu giúp chúng sanh thoát ly cảnh khổ là đề cập đến góc độ khổ đau về mặt tâm lý, không phải là sự khổ đau về mặt tự nhiên, tức là giúp cho con người được giàu sang. Nếu như chúng ta đồng ý quan điểm này thì chúng ta nên làm nhiệm vụ, bổn phận và trách nhiệm của người xuất gia, giúp chúng sanh thoát khỏi khổ đau bằng cách giúp họ; làm sống dậy đặc tính giác ngộ trong mỗi chúng sanh, không phải chỉ là lời an ủi hay cường điệu vấn đề từ thiện, những công việc mang tính giúp đỡ bằng vật chất, đó là lý do tại sao đức Phật khuyên chúng ta nên làm nhiệm vụ chính mình. Nếu chúng ta tự xưng mình là trưởng tử của Như Lai thì chúng ta nên kế thừa sự nghiệp vĩ đại của Ngài là hoằng truyền chánh pháp, không nên là người kế thừa tài vật, là những gì thuộc vật chất của thế gian. Nếu chúng ta không làm như vậy mà làm ngược lại thì đó là nguyên nhân để cho người trong thế gian có sự hiểu lầm chê cười đạo Phật, chê cười đoàn thể trong sáng và thanh tịnh của tăng già, và đó cũng là nhân tố để giáo pháp của đức Phật càng ngày càng xa rời thế gian.
Ở đây, người viết đề cập vấn đề này, không đồng nghĩa với sự phê phán xây dựng cơ sở của Phật giáo mà chỉ muốn nói rằng, sự phát triển cơ sở vật chất cần xét đến nhu cầu thực tế sinh hoạt của Phật giáo và quần chúng Phật tử, không nên có suy nghĩ sự khuếch trương to lớn những cơ sở vật chất của Phật giáo đồng nghĩa với sự hưng thịnh Phật giáo, vì sự hưng thịnh với chùa to Phật đẹp đôi khi không giống nhau. Sự hưng thịnh của đạo Phật được căn cứ từ sự lớn mạnh của tăng già, là một đoàn thể hòa hợp trong sự thanh tịnh, của những nam nữ cư sĩ là những người biết tu tập và biết hộ trì chánh pháp. Đây là điều mà mọi thành viên trong tăng già cần suy nghĩ.
2.Đức Phật là vị Đạo sư
Cho đến nay mọi người đều biết Phật giáo là một tôn giáo, nhưng đứng trên ý nghĩa của từ tôn giáo mà hiểu thì Phật giáo không phải là tôn giáo, vì Phật giáo không có thần quyền, bản thân đức Phật cũng không tự cho mình là một vị giáo chủ, Ngài tự xác nhận mình chỉ là người chỉ ra sự thật của cuộc sống là khổ đau và làm thế nào để đoạn trừ những khổ đau, để được hạnh phúc và an lạc. Những ai muốn thành đạt được mục đích này, phải tự mình tu tập, sửa đổi tâm tánh, chuyển mê thành ngộ, lựa chọn cuộc sống khổ đau hay hạnh phúc đều do chính con người chúng ta chọn lựa, không phải do đức Phật hay Chúa quyết định, đức Phật chỉ là vị Đạo sư chỉ đường mà thôi. Giáo lý duyên khởi và nhân quả của Ngài đã khẳng định điều đó. 'Kinh Đa Giới' trong "Kinh Trung A hàm" đức Phật đã trình bày rất rõ về quan điểm của Ngài như sau:
Phàm có những sợ hãi gì sanh khởi, này các tỷ kheo, tất cả những sợ hãi ấy sanh khởi cho người ngu, không phải cho người hiền trí; Phàm có những thất vọng gì sanh khởi, này các tỷ kheo, tất cả thất vọng ấy sanh khởi cho người ngu, không phải cho người hiền trí; Phàm có những hoạn nạn gì sanh khởi, này các tỷ kheo, tất cả hoạn nạn ấy sanh khởi cho người ngu, không phải cho người hiền trí.
Lời dạy này tuy rất đơn giản nhưng nội dung hàm chứa ý nghĩa thật sâu sắc, không những nói lên sự công bằng của luật nhân quả mà còn nói lên quan điểm của đức Phật về phương pháp giáo dục con người.
Đức Phật cho rằng, tâm lý sợ hãi, lo âu, phiền muộn... là kết quả của lòng ngu si, trong Phật giáo gọi là ‘vô minh’. Vô minh là nguyên nhân sâu xa của mọi sự khổ đau. Ví dụ, trạng thái khổ đau của một người đánh bạc là kết quả của việc đam mê cờ bạc, việc đam mê cờ bạc xuất hiện từ lòng tham lam, tham lam là sự biểu hiện của tâm ngu si, như vậy ngu si là nguồn gốc của khổ đau.
Thế thì bằng cách nào chúng ta đoạn trừ đau khổ? Phải chăng chúng ta cầu Chúa xin Phật để Ngài giảm tội ban vui? Theo đạo Phật không ai có quyền cho ta niềm vui hay đọa đày chúng ta đau khổ, vì nguồn gốc của sự đau khổ xuất hiện từ lòng ngu si, mà lòng ngu si ở ngay trong lòng của chúng sanh, không phải là ở Phật hay Chúa, đồng thời sự ngu si ấy là một trạng thái tâm lý chứ không phải là một vật để có thể dùng hình thức 'xin' và 'cho'. Như vây, con người muốn đoạn trừ nỗi đau khổ chỉ có biện pháp duy nhất là lấy sự hiểu biết, lấy trí tuệ làm phương tiện để đoạn trừ tính ngu si ấy. Ví như, bóng tối và ánh sáng không phải là cái xin và cho. Nơi nào có ánh sáng thì nơi ấy không ai có thể mang bóng tối vào được, dù người đó là Phật hay Chúa, ngược lại nơi nào không có ánh sáng thì nơi ấy phải chịu cảnh tối tăm, dù có Chúa hay Phật cũng không thể biến nơi đó có ánh sáng. Cũng vậy, chúng ta không thể xin Phật cho chúng ta trí tuệ mà bản thân chúng ta không tu tập, không thắp lên ngọn đuốc của chính mình.
Như vậy, Phật có giá trị gì đối với đời sống con người? Xin thưa rằng, đức Phật là người giúp ích cho con người cho xã hội rất nhiều, vì Ngài là người đã khám phá tính hai mặt của cuộc sống là khổ đau và hạnh phúc. Ngài chỉ ra rằng, khổ đau luôn luôn gắn liền với vô minh; và hạnh phúc luôn luôn gắn liền với trí tuệ. Ngài định nghĩa vô minh là cái thấy cái biết của ảo tưởng, không đúng với sự thật, từ chuyên môn trong kinh tạng Pàli gọi là 'không như lý tác ý'hay trong kinh điển Đại thừa gọi là 'điên đảo mộng tưởng'. Do vì điên đảo không thấy đúng sự thật, cho nên dẫn đến hành vi sai lầm, từ hành vi sai lầm đưa đến kết quả không như ý muốn; cái gì xuất hiện mà không như ý thì cái ấy là khổ sanh. Đó là lý do tại sao đức Phật cho rằng, nguồn gốc của khổ đau là vô minh. Cũng vậy, hạnh phúc luôn luôn gắn liền trí tuệ, tiếng Pàli gọi là pañña tiếng Phạn gọi là pra-jñāparamit. Hai từ này hàm chứa ý nghĩa khác nhau, nhưng đều có nghĩa là trí tuệ, tức là sự hiểu biết đúng, kinh tạng Pàli gọi là 'như lý tác ý' trong "kinh Pháp Hoa" gọi là 'thập như thị'. Vì sự hiểu biết đúng như sự thật, cho nên dẫn đến hành động đúng, do vì hành động đúng cho nên đưa đến kết quả là hạnh phúc. Đó là lý do tại sao đức Phật cho rằng trí tuệ là nguyên nhân đưa đến đời sống an lạc và hạnh phúc.
Nếu như chúng ta chấp nhận cách lý giải này, thì chúng ta không nên xem đức Phật như là một vị thần linh, có quyền ban phước giáng họa cho mọi người, vì Ngài cho rằng, ngu si là nguồn gốc của phiền não, trí tuệ là cội nguồn của hạnh phúc. Trí tuệ chỉ xuất hiện qua sự nỗ lực tu tập, hành trì giới định và tuệ, không phải là cái từ trên trời rơi xuống, hay do ai cho.
Do vậy, chúng ta không nên có suy nghĩ sai lầm xem đức Phật như là vị Thượng đế, có quyền năng ban phước hay giáng hoạ, Ngài chỉ là bậc Đạo sư, chỉ dẫn con đường đưa đến Niết bàn. Nội dung và ý nghĩa của từ 'Đạo sư' trong đạo Phật, không đồng nghĩa với khái niệm Thượng đế của đạo Thiên Chúa, vì ý nghĩa của từ 'Đạo sư' không mang khái niệm 'Sáng tạo' và 'quyền năng', ngược lại ý nghĩa của từ 'Thượng đế' thì bao hàm hai ý nghĩa này.Đây là điều chúng ta cần chú ý. Do vậy, trong tiến trình tu tập của một vị xuất gia hay tại gia trong Phật giáo, đức Phật chỉ giữ vai trò là một vị đạo sư, tường tận chỉ dẫn cho đệ tử con đường đoạn trừ phiền não, để hướng đến cuộc sống an lạc và hạnh phúc. Con đường đó chính chúng ta phải tự thực hành, không phải đức Phật là người làm thay; không phải chúng ta cứ tin đức Phật, tự mình không cần thấy sai và sửa sai, rồi đến một ngày nào đó, Ngài sẽ cho ta sự giác ngộ giải thoát. Liên quan đến ý tưởng này, trong "Kinh Tương Ưng Bộ" (samyutta-Nikàya) tập 3, ‘Phẩm Trưởng Lão’ đức Phật dạy rằng:
Người không giỏi về đường sá, này Tissa, là ví cho kẻ phàm phu. Người giỏi về đường sá, này Tissa, là ví cho Như Lai, bậc A La Hán, chánh đẳng giác.
Ở đây đức Phật chỉ rõ, phàm phu chúng sanh là những người không biết rõ con đường đi đến Niết bàn, còn đức Như Lai (Tathàgata), bậc A La Hán (Arahato) là người đã biết rõ và đã thực hành con đường đó. Do vì không biết 'con đường giác ngộ' cho nên chúng sanh trôi lăn trong sanh tử luân hồi, còn Như Lai vì biết rõ và đã thực hành con đường đó, cho nên Ngài được giải thoát giác ngộ. Từ ý nghĩa này, cũng gợi ý cho chúng ta hiểu đến một ý nghĩa khác, sự khác biệt giữa đức Phật với chúng sanh là 'biết' và 'không biết', Phật là người biết, chúng sanh là những người không biết. Thế thì chúng ta muốn thành đạt sự giác ngộ và giải thoát không thể dừng lại ở niềm tin mà phải nỗ lực thực hiện 'tinh tấn', 'niệm', 'định' và 'tuệ'. Trí tuệ là nhân của giải thoát. Ngoài ra, 'Kinh Ganakamoggallàna Sutta' trong "Kinh Trung Bộ" (Majjhima Nikàya" ghi lại cuộc đàm thoại giữa đức Phật và Moggallàna, với nội dung nói rõ quan điểm vai trò của đức Phật trong sự nghiệp độ sanh của Ngài.
Moggallàna hỏi Thế tôn:
- Các đệ tử của Sa môn Gotama, khi được Sa môn Gotama khuyến giáo như vậy, giảng dạy như vậy, có phải tất cả đều chứng được cứu cánh Niết bàn hay chỉ có một số chứng được?
Thế tôn trả lời:
- Này Bà la môn, một số đệ tử của ta, khi được thuyết giáo như vậy, giảng dạy như vậy, một số chứng được cứu cánh Niết bàn, một số không chứng được.
Moggallàna lại hỏi:
- Thưa Tôn giả Gotama, do nhân gì, do duyên gì trong khi có mặt Niết bàn, trong khi có mặt con đường đưa đến Niết bàn, trong khi có mặt Tôn giả Gotama là bậc chỉ đường, tuy vậy các đệ tử Tôn giả Gotama, được tôn giả Gotama khuyến giáo như vậy, giảng dạy như vậy, một số chứng được cứu cánh Niết bàn, một số không chứng được?
Thế tôn không trực tiếp trả lời câu hỏi của đối phương, gián tiếp trả lời bằng cách đặt vấn đề ngược lại. Cách trả lời này nhằm mục đích lấy câu trả lời của đối phương làm câu trả lời cho chính mình. Cho nên đức Phật đã đặt vấn đề: nếu như có người hỏi ông về con đường đi đến thành Vương Xá, ông cặn kẽ trả lời cho họ nên đi theo con đường này sẽ đến thành, nhưng họ không làm theo sự chỉ dẫn của ông, thế thì người đó có thể đến được thành Vương Xá không? được Bà la môn Ganaka Moggallàna trả lời 'không', cho nên Thế tôn trả lời:
Cũng vậy, này Bà la môn, trong khi có mặt Niết bàn, trong khi có mặt con đường đưa đến Niết bàn, và trong khi có mặt ta là bậc chỉ đường. Nhưng các đệ tử của ta, được ta khuyến giáo như vậy, giảng dạy như vậy, một số chứng được cứu cánh Niết bàn, một số không chứng được. Ở đây này Bà la môn, ta làm gì được? Như lai chỉ là người chỉ đường.
Qua mẫu đối thoại này, đức Phật và Bà la môn Ganaka Moggallàna đều xác nhận: Sự thật có Niết bàn (titthat'eva nibbànam), có con đường đưa đến Niết bàn (titthati nibbànagàmi-maggo). Điều này gợi ý cho chúng ta hiểu, đạo Phật không phải là một tôn giáo bi quan, nhìn cuộc đời chỉ có khổ đau và sầu muộn, mà đạo Phật chỉ ra rằng, ngoài cuộc sống khổ đau, con người còn có cuộc sống an lạc hạnh phúc và có con đường đưa đến cuộc sống hạnh phúc đó. Đây là quan điểm rất tích cực của đạo Phật, một quan điểm giáo dục rất trong sáng thực tế và khả thi.
Nhưng ở đây có một vấn đề được đặt ra, bằng cách nào chúng ta đạt được cuộc sống hạnh phúc đó? Chúng ta hoàn toàn dựa vào 'niềm tin' để một ngày nào đó được đức Phật đưa ta đến cõi Niết bàn, hay là chúng ta phải tự mình nỗ lực thực hành lời dạy của Ngài để được giải thoát giác ngộ? Đoạn kinh văn vừa dẫn đã cho chúng ta câu trả lời rất rõ ràng: 'Như Lai chỉ là người dẫn đường'mà thôi. Điều đó có nghĩa là dẫu rằng có Niết bàn, có con đường đi đến Niết bàn, và có cả Như Lai là người chỉ đường, nhưng nếu chúng ta không thực hành theo những gì đức Như Lai đã chỉ dẫn, hoặc thực hành không đúng theo sự chỉ dẫn, hành giả cũng không thể đến được cõi Niết bàn. Lý do tại sao? Câu trả lời đơn giản là chúng ta không thực hành hoặc không thực hành đúng lời Phật dạy, cho nên trong hàng đệ tử của Ngài, mặc dù tất cả đều được hướng dẫn tu tập dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn, nhưng có người chứng quả, nhưng cũng có người không chứng quả, giống như Ganaka Moggallàna đã chỉ đường cho khách bộ hành, nhưng khách bộ hành không đi theo sự chỉ dẫn, kết quả không đến được mục đích. Đó không phải là lỗi của người chỉ đường mà lỗi của người bộ hành không làm theo. Đó là lý do tại sao đức Phật nói: Như Lai chỉ là người dẫn đường(Maggakkhayi, bràhmana, Tathàgato—The Tathàgata is one who shows the way).
Ý nghĩa câu nói này, đức Phật xác minh rõ Ngài không phải là vị ‘Thượng đế’ hay ‘Thần linh’ có quyền ban thưởng cho những ai cảm thấy vừa lòng, hoặc trừng phạt cho những ai không phục tùng theo ý Ngài. Theo đạo Phật, luật nhân quả rất công minh, nhân nào thì quả nấy, không ai có quyền làm cho người khác đau khổ hay hạnh phúc, sự đau khổ hay hạnh phúc của mỗi người đều do bản thân người ấy tạo nên. Đây chính là lý do tại sao đức Phật dạy:
Hãy sống tự mình làm hòn đảo cho chính mình, này các Tỷ kheo, hãy nương tựa nơi chính mình, không nương tựa một ai khác. Hãy lấy pháp làm hòn đảo, hãy lấy pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một ai khác.
Có thể nói, đây là khuynh hướng giáo dục của Phật giáo, luôn đề cao tinh thần biết ‘bổn phận’ và ‘trách nhiệm’. Người biết bổn phận và trách nhiệm không những là người Phật tử tốt mà còn là một công dân tốt trong xã hội. Theo tôi, khuynh hướng giáo dục này cần được thực thi ở xã hội ngày nay - một xã hội đang có chiều hướng mâu thuẫn giữa thành quả của khoa học và hệ thống giáo dục thuần túy tôn giáo. Quá đề cao thành quả của khoa học kỹ thuật là nguyên nhân đưa đến xã hội hỗn loạn, xem nhẹ vai trò đạo đức, đánh mất tình cảm giữa người với người, giữa mẹ và con, giữa bạn bè… Mặt khác, quá cường điệu những hình thức sinh hoạt tín ngưỡng thần quyền sẽ là yếu tố chận đứng sự phát triển của xã hội, xa rời tinh thần biết bổn phận và trách nhiệm của con người, là nguyên nhân cản trở cho thế hệ trẻ đến với tôn giáo. Tuổi trẻ chỉ biết sự thành tựu của khoa học về vật chất, không biết giá trị giáo dục của tôn giáo sẽ có nguy cơ xem thường đạo đức, dẫn đến xem thường bổn phận trách nhiệm với chính mình, với gia đình và cuối cùng là bổn phận trách nhiệm đối với xã hội. Đây là hai cực đoan đang hình thành và xảy ra trong xã hội chúng ta. Theo tôi, hệ thống giáo dục Phật giáo sẽ giúp cho con người không rơi vào hai cực đoan này, có nghĩa là không quá đề cao tự mãn với thành quả của khoa học vật chất, cũng không quá cường điệu sinh hoạt tín ngưỡng thuần túy, mang tính thần quyền. Tính giáo dục của đạo Phật đề cao vai trò trí tuệ, biết bổn phận và trách nhiệm, đồng thời lấy trí tuệ làm kim chỉ nam xây dựng nếp sống đạo đức, không ngăn cản sự tiến bộ của con người và luôn phù hợp với nhu cầu tiến bộ của xã hội.
Ngoài ý nghĩa đức Phật là một vị Đạo Sư, trong "Kinh Tạp A hàm", kinh số 389 đức Phật còn tự ví mình như là vị 'Lương y', được ghi lại như sau:
Có bốn pháp thành tựu gọi là bậc Đại y vương, xứng đáng ngôi vị vua. Những gì là bốn? Thứ nhất là khéo biết bệnh, thứ hai là khéo biết nguyên nhân của bệnh, thứ ba là khéo biết cách đối trị bệnh, để về sau bệnh không còn tái phát nữa…Như Lai Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác là bậc Đại Y vương thành tựu bốn đức, chữa lành bệnh chúng sanh cũng như thế. Những gì là bốn? Đó là Như Lai biết đây là khổ thánh đế đã biết như thật; Đây là khổ tập thánh đế đã biết như thật; Đây là khổ diệt thánh đế đã biết như thật; \đây là khổ diệt đạo đế đã biết như thật….
Trước nhất đức Phật nói rõ về đặc tính của một vị 'lương y' ở thế gian, có 4 đặc tính: thứ nhất, có khả năng chẩn đoán căn bịnh; thứ hai, biết rõ căn nguyên của chứng bịnh; thứ ba, biết rõ phương pháp trị bịnh; thứ tư, sau khi trị xong bịnh không tái phát. Đây là 4 đặc tính mà một vị 'lương y' ở thế gian cần phải có.
Cũng vậy, đức Phật cũng là một vị 'lương y', nhưng Ngài không phải là lương y của thế gian mà là vị lương y ‘xuất thế gian’. Thế thì như thế nào được gọi là một vị lương y của xuất thế gian? Căn cứ nội dung và ý nghĩa bản kinh vừa dẫn trên, chúng ta thấy rằng, sở dĩ Ngài được gọi là vị lương y xuất thế gian, vì Ngài là người đã chứng tri pháp Tứ đế (Catvàri-àryasatỳani): Điều thứ nhất là Khổ đế (Duhkha-satya), là hiện trạng thực tế của đời sống con người, bao gồm hai loại khổ đau, loại khổ đau thuộc về tự nhiên và loại khổ đau thuộc về tinh thần. Những loại khổ đau thuộc về tự nhiên như là sự đói khát, nóng lạnh, bịnh tật.v.v...bất cứ ai cũng có, dù đó là Phật hay thánh. Loại khổ thuộc về tâm lý, chỉ cho những trạng thái khổ đau xuất phát từ tâm lý, như thương yêu nhau mà phải sống chia lìa (ái biệt ly khổ), cầu mong mà không được (cầu bất đắc khổ), ghét mà phải sống gần nhau (oán tắng hội khổ). Thứ hai là Tập đế (Samudaya-satya) là những nguyên nhân làm phát sinh những khổ đau cho con người, nó chính là vô minh, được biểu hiện bằng lòng khát ái. Thứ ba là Diệt đế (Nirodha-satya), là trạng thái an lạc và hạnh phúc, khi con người chấm dứt lòng tham lam sân hận và ngu si, hay còn gọi là trạng thái Niết bàn. Thứ tư là Đạo đế (Màrga-satya), là con đường hay phương pháp đoạn trừ phiền não, tức là con đường bát chánh đạo, bắt đầu là chánh kiến... Nói tóm lại, nội dung ý nghĩa của giáo lý Tứ Đế nhằm thuyết minh về hai phương diện về cuộc sống của con người, một là mặt nhiễm ô bao gồm Khổ đế và Tập đế, nói lên cuộc sống của con người vốn là khổ đau và nguyên nhân sinh ra khổ đau; hai là mặt bất nhiễm ô hay thanh tịnh, bao gồm Diệt đế và Đạo đế, phản ánh nếu như con người biết sống, chính cuộc sống này cũng cho ta cuộc sống hạnh phúc và an lạc, ở ngay cuộc đời này.
Từ ý nghĩa này ta thấy Phật giáo không phải là một tôn giáo có thái độ bi quan, nhìn cuộc đời với cặp mắt chỉ có khổ đau và sầu muộn, mưu cầu một kiếp sống an lạc ở bên kia thế giới, như một số người đã nghĩ. Theo tôi, Phật giáo là một tôn giáo dám nhìn thẳng vào sự thật, đức Phật đã thẳng thắn chỉ ra cuộc đời vốn có sự đau khổ và nguyên nhân gây ra sự đau khổ đó. Không những chỉ có thế mà đạo Phật còn chỉ ra, ngoài cuộc sống khổ đau, con người còn có cuộc sống an lạc và hạnh phúc và con đường đi đến cuộc sống đó. Cuộc sống an lạc và hạnh phúc không phải là cuộc sống sau khi từ giã cuộc đời, đi qua bên kia thế giới mới có, mà nó ở ngay trong đời sống này, khi chấm dứt lòng tham lam, nóng giận và ngu si thì khi ấy hạnh phúc liền xuất hiện. Như vậy, chúng ta không thể cho rằng Phật giáo là một tôn giáo tiêu cực mà là một tôn giáo tích cực, không phải là tôn giáo bi quan mà là một tôn giáo lạc quan, không phải là một tôn giáo chỉ đề cập đến xuất thế mà còn đề cập đến tinh thần nhập thế.
Thế thì vị lương y của thế gian là người giúp cho con người làm giảm thiểu những nỗi khổ về thân. Đức Phật cũng là vị lương y, nhưng chủ trị của Ngài không chuyên trị 'thân bịnh' mà chuyên trị 'tâm bịnh' của chúng sanh. Thân tuy không bịnh nhưng với tâm đầy lòng tham lam hận thù và ngu si thì nỗi khổ đau phiền muộn chất chồng như núi, thân tuy bịnh nhưng lòng tràn đầy bao dung từ mẫn và sáng suốt, cuộc sống vẫn cảm thấy an lạc và hạnh phúc.
Tóm lại, đức Phật chỉ là một vị 'Đạo sư' hay là một vị 'Lương y', ý nghĩa này vô cùng sâu sắc. Có người không hiểu lại cho rằng ý nghĩa này làm giảm đi giá trị của đức Phật. Theo tôi, nó không những không làm giảm đi uy tín của Ngài mà ngược lại còn làm tăng thêm uy tín của Ngài, nhất là ở xã hội ngày nay.
Với đời sống lạc lậu của con người trong quá khứ khi chưa có ánh sáng của khoa học kỹ thuật, tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng đã vay mượn sự bỡ ngỡ trước những hiện tượng xảy ra bất thường của thiên nhiên làm phương tiện giáo dục con người. Thần thánh hóa đức Phật, với mục đích giúp cho con người tránh xa điều ác, làm những điều lành, để cuộc sống con người được hạnh phúc và an lạc. Ở xã hội ngày nay, nhất là ở xã hội Tây phương với hệ thống giáo dục tốt, cộng thêm nền khoa học kỹ thuật tiên tiến, những hiện tượng tự nhiên dần dần đã được khám phá, không còn là sự nghi ngờ của con người, phương tiện giáo dục mang tính thần thoại ấy, không còn thích nghi nữa, thế thì tại sao chúng ta không vận dụng tinh thần trong sáng vốn có của đức Phật để giới thiệu cho con người và xã hội ngày nay? Tại sao chúng ta không giới thiệu đức Phật bằng xương bằng thịt, bằng trí tuệ siêu việt trong sáng của Ngài cho mọi người, nhất là cho thế hệ trẻ - thế hệ đã trang bị cho mình một vốn kiến thức cơ bản trước khi vào cuộc sống? Như vậy, đức Phật lịch sử có vai trò hết sức quan trọng ở xã hội chúng ta.