Theosựphán giáo của ngài Thiên Thai và Cát Tạng (Thiên Thai tôngvà Tam Luận tông), có 5 thời kỳ thuyết pháp của đức Phậtlà Hoa Nghiêm, A Hàm, Bát Nhã, Phương Đẳng và Pháp Hoa NiếtBàn. Trong đó lại chia ra 3 giai đoạn Chuyển pháp luân (tampháp luân) là:
1.Căn bản Pháp luân: Kinh Hoa Nghiêm, khi đức Phật nói kinh nàychỉ có một số rất ít người hiểu, nên Ngài mới tùy phươngtiện nói ra ba thừa đó là: Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa,và Bồ-tát thừa.
2.Chi mạt Pháp luân: Trước hết là thời A hàm, nhưng hàng ThanhVăn thiên chấp kinh này nên đức Phật và Phương Đẳng đểđưa lên Đại thừa. Nhưng ở Đại thừa này chưa rốt ráo,vì mới chỉ thọ ký cho hàng Bồ-tát thành Phật, chứ chưathọ ký cho Thanh Văn. Do đó, giáo pháp ở các thời này vẫncòn là chi mạt (cành ngọn). Đến giai đoạn thứ ba:
3.Nhiếp mạt quy bản pháp luân: Đây mới là Pháp luân rốtráo của đức Phật, đó là thời giáo Pháp Hoa gồm nhữngchi mạt về căn bản. Mở đầu là Hoa Nghiêm và kết thúclà Pháp Hoa. Đây là thủy chung của một thời giáo hóa mangcùng một ý nghĩa nhưng hai phương pháp khác nhau: Hoa Nghiêmthì nói thẳng nên chỉ có một số Bồ-tát giác ngộ đượcmà thôi, còn Pháp Hoa thì dùng nhiều cách nói để đưa ngườiđến giác ngộ; tùy căn cơ chúng sanh mà đức Phật đã nóinhững kinh khác, cho đến Pháp Hoa mà gồm đủ tất cả giáolý của đức Phật đã được nói trong 45 năm. Vì tánh cánhquan trọng đó của kinh này mà ngài Trí Khải đã căn cứvào đó để lập ra Thiên Thai tông rất thịnh hành. Khi truyềnqua Nhật Bản, đến vào năm 1222 có thiền sư Nhật Liên dựavào Pháp Hoa Huyền Nghĩa của Ngài Trí Khải mà lập ra NhậtLiên tông, đến nay vẫn thạnh.
Đólà vị trí kinh Pháp Hoa theo cách phán giáo của ngài ThiênThai vậy.