ThíchĐức Niệm
PhậtHọc Viện Quốc Tế Xuất Bản Phật Lịch 2535 - 1991
11.ĐÔNG THẤT THIỀNSƯ VÀ TÂY THẤT THIỀN SƯ
Này các huynh đệ,
Hôm nay đây,Thầy kể câu chuyện này để các con suy ngẩm, rồi đem áp dụng trên đường tu tậpcủa mình. Câu chuyện ngụ ý khuyên ta thúc liễm thân tâm, không màng dính mắcsai lầm danh lợi. Câu chuyện này của Hòa Thượng Thích Đôn Hậu kể cho Thầy nghenăm xưa. Câu chuyện ấy như thế này:
Từ ngày kế vị vua cha,bốn năm liền bận rộn việc triều chính quốc sự, vua Lý Thái Tôn không có thì giờđể đi vãng cảnh, hành hương viếng chùa lễ Phật.
Tuy vậy, nhà vua lúcnào cũng nhớ đến Viên Chiếu Quốc Sư, bậc thầy đạo hạnh đã dạy dỗ mình từ thuởbé, khi còn là Thái tử. Mặc dù giờ đây nhà vua ở trong cung điện ngai vàng,ngày ngày kẻ hầu người hạ, kẻ bái người tâu, kẻ quỳ người mọp. Mỗi bước đi cótiền hô hậu ủng. Hằng ngày nhà vua thưởng thức những thứ cao lương mỹ vị khôngthiếu món gì.
Khi mới lên ngôi, mỗilần ngự triều, ngồi trên ngai vàng, bá quan văn võ hầu chào, xưng hô vạn tuế,vua Lý Thái Tôn cảm thấy oai vệ thích thú. Nhưng cái cảm giác thích thú này sauđó chẳng bao lâu chai dần, rồi từ từ nhường chỗ cho ý niệm nhàm chán. Tuy sốngtrong những ngày vàng đêm ngọc, chăn êm nệm ấm, lâu đài cung điện nguy nga,cung phi mỹ nữ hát xướng múa ca, nhưng lắm lúc nhà vua vẫn cảm thấy mình bịràng buộc bởi nghi lễ, phát sanh cảm giác tù túng, tưởng chừng như bị giam hãmràng buộc bởi triều nghi áo mão cân đai.
Nhà vua nhớ tiếc thờikỳ trẻ thơ, thuở còn là Thái tử ở chùa theo học với thiền sư, ngày ngày luyệnvăn tập võ, thong dong với núi rừng hoa lá, vui với cá lội hồ sen, tươi cườivới chim muông ca hát trên cành cây cổ thụ, gió mát hiu hiu tuỳ thích nằm ngủngon lành dưới gốc cây, trên vườn cỏ, dưới hiên chùa, bất cứ chỗ nào. Ngày ngàysống bên cạnh sư phụ uy nghi từ bi điềm đạm với những lời khuyên nhủ hiền hòamát dịu gọt ngào. Những lời dạy dỗ như rót chảy sâu vào tâm cang huyết quản,cho đến bây giờ tuy đã làm vua mà vẫn còn ghi nhớ rõ ràng. Mỗi lần nhớ đến thuởthiếu thời nơi chốn thiền môn, nhà vua cảm thấy tâm hồn êm đềm mát dịu làm sao!
Đã bốn mùa Phật Đản,nhà vua không thu xếp nổi thì giờ để thân hành đến dự lễ, lòng cảm thấy nhưthiếu sót một điều gì lớn lao nhất trong đời mình. Nên Phật Đản năm nay, nhàvua quyết định thế nào cũng phải thu xếp việc triều chính, để lên chùa lễ Phật,thăm sư phụ mình mới được. Nhà vua thèm sống lại cái cảnh trí không khí thanhthản của thời niên thiếu lắm. Nhưng làm sao con tìm được cái tâm trí thanh thảncủa thời xa xưa trước đây nữa!
Lòng đã quyết, dù việctriều chính bận rộn, nên hôm ấy khi mới vừa rạng đông, khí trời cuối xuân đầuhạ trong lành mát dịu của ngày Phật Đản, nhà vua cùng đoàn tùy tùng ra khỏihoàng thành, hướng về núi Yên Tử tiến bước. Sở dĩ nhà cua đi chùa sớm như vậy,là vì muốn đến chùa trước khi các thập phương Phật tử đến, để có thì giờ hầuchuyện với Viên Chiếu thiền sư, bậc thầy đã tận tụy đào tạo hướng dẫn mình. Tuythân ở triều đình, mà lòng lúc nào cũng hằng mong ước được gặp lại sư phụ đểhầu chuyện, thỉnh ý về cách trị quốc an dân. Đồng thời nhà vua cũng muốn mìnhnhư bao Phật tử khác đến đúng giờ tham dự lễ chánh thức Phật Đản.
Trải suốt mấy dặmđường, tiếp đó phải theo triền núi ngoằn ngoèo đường dốc, nhà vua đã đến núiYên Tử như thời gian dự định. Nhà vua gặp thiền sư với niềm hoan hỷ trong đạotình sư đệ, trong chén trà đạo vị, trong tinh thần tri kỷ, trong cùng ý nghĩathương nước thương dân, thương đạo. Tuy bây giờ là vua, nhưng đối với ViênChiếu thiền sư, nhà vua lúc nào cũng một niềm tôn kính là bậc thầy.
Nhà vua và thiền sưtrong tình sư đệ qua câu chuyện, thiền sư bày tỏ tâm sự với nhà vua : "Tôikhông còn bao lâu nữa, thân tứ đại này sẽ hoàn trả lại bổn nguyên của nó. Việcđạo việc đời đều nhờ ở vua". Vua vừa nghe lời ấy, lấy làm bùi ngùi xúcđộng vô cùng, như cây cổ thụ xum xê muông chim đoàn tụ ngày ngày hót vui, naybỗng nhiên khô cành trốc gốc. Như mặt trời sắp lặn, hoàng hôn kéo về phủ lênvạn vật tối tăm.
Thế rồi chẳng bao lâusau đó, vào một đêm mùng tám trăng lưỡi liềm, ánh trăng mờ bạc trải trên vạnvật, thiền sư gọi hai người đệ tử tâm phúc vào tịnh thất căn dặn: "Thầysắp trở về nguyên quán. Thầy hòa đồng vạn thể pháp thân. Sự nghiệp hoằng phápđộ sanh của Thầy, nay trao lại cho hai con. Giờ đây thầy trao cho hai con, mỗingười một ngọn đèn tuệ, để soi sáng bản tâm, đi trọn hành trình trở về bảnthể". Căn dặn xong, thiền sư trao tận tay hai người đệ tử của mình mỗingười một cây đèn và căn dặn: "Các con nhận lấy đèn tuệ này, mỗi khi tọathiền nên để ngay trước mặt, nhìn thẳng vào ngọn đèn mà quán tưởng thì một ngàynào đó tuệ tâm khai ngộ". Căn dặn xong, Viên Chiếu thiền sư ngồi kiết giàan nhiên viên tịch.
Chẳng mấy chốc tinviên tịch của Quốc sư Viên Chiếu đồn ra muôn nẻo đường. Khắp đó dây, từ vua chođến quan dân đều tựu tề về núi yên Tử để dự lễ trà tỳ. Sau lễ trà tỳ sư phụxong, hai người đệ tử nhất mực từ chối không chịu nhận chức vị viện chủ trụ trìkế nghiệp thầy mình để lo cơ sở già lam cổ tư. Mỗi người xin được tĩnh tu ở haitịnh thất phía Đông và phía Tây triền núi, hầu có nhiều thì giờ chuyên tâmthiền quán. Được người thời bấy giờ thường gọi là Đông thất thiền sư và Tâythất thiền sư.
Mỗi lần ngồi thiền,nhớ lời thầy di chúc, Đông thất thiền sư cũng như Tây thất thiền sư đều để ngọnđèn dầu trước mặt làm đúng như lời trước khi thầy nhắm mắt viên tịch căn dặn.Từ đấy, Đông thất cũng như Tây thất thiền sư đều giữ vẻ trầm lặng, ngày ngàychìm sâu vào núi rừng tịch mịch. Trong cái không khí thanh tịnh tĩnh lặng, dứtbặt âm thanh của người trần thế, ngày ngày không một bóng người lai vãng, cuộcsống thanh bần nhưng thật êm đềm giải thoát của hai tăng nhân có lúc như hòamình cùng với vũ trụ. Đêm đến, các loài thú rừng từ các nơi tựu về, quấn quítbên tịnh thất của hai ngài. Có những đêm trăng sáng hươu nai đến quào cửa tịnhthất của Đông thất thiền sư và Tây thất thiền sư, chúng kêu ư ứ hòa với nhữngtiếng kêu ríu rít của loài hươu nai thỏ vượn, như để mời mọc hai thiền sư racùng vui chơi với chúng.
Biết rõ điều đó, thiềnsư xả thiền, dịu dàng đỡ cánh cửa lá bước ra. Lạ thay, vừa thấy thiền sư, loàithú rừng vẫy đuôi kêu ríu rít. Có lúc những thớt cọp beo rằn rện hiền lành nằmmọp, vẫy đuôi với đôi mắt sáng như lằn điện xẹt. Thiền sư vuốt nhẹ lên lưngnhững con vật. Giữa cảnh đất trời bao la, giữa tình người và muôn loài hoang dãcùng hòa điệu, thật là thân mật hữu tình "tình dữ vô tình đồng viên chủngtrí".
Có những đêm tối trờituyết sương băng giá phủ đầy, thiền sư vẫn nghe có tiếng động nhẹ bên ngoài.Sáng hôm sau khí trời quang đãng, thiền sư mở cửa bước ra, thấy ở trước sânthiền thất còn lưu lại những dấu chân của những thú rừng cùng với những tráicây rừng ngon ngọt.
Đông thất thiền sư vàTây thất thiền sư lặng lẽ tĩnh tu gội rửa tâm tư, chuyên tu tịnh nghiệp. Trảithời gian tháng năm, phần lớn nhờ trái cây rừng của loài thú mang đến cúngdường mà hai thiền sư độ nhật qua ngày.
Hai thiền sư chuyên tutịnh nghiệp thâm sâu, phước đức cao dầy đã cảm hóa đến muôn loài. Tiếng đồn xa,ngoài nhân gian người người kính ngưỡng. Trong triều nội vua chúa thần quan ainấy cũng đều mến mộ đạo hạnh của hai ngài.
Để cho vua và đìnhthần chiêm ngưỡng đức tướng, nghe đạo thiền thấm nhuần pháp nhủ, nhà vua cho sứgiả tìm đến tận núi, gõ cửa tịnh thất thỉnh thiền sư về triều. Đông thất thiềnsư im lặng bất động, khéoléo chối từ. Tây thất thiền sư trước những lờica ngợi đức hạnh, tha thiết thỉnh cầu của sứ giả, đã nhận lời vua thỉnh, vềtriều thuyết pháp, đàm thiền cho vua, hoàng tộc và quần thần nghe. Tây thấtthiền sư nhờ tu mà được chút huệ, nên thông đạt lý đạo lẽ thiền, thuyết pháphóa duyên được vua và triều thần trọng vọng. Từ đó, thỉnh thoảng nhà vua cho sứgiả lên núi thỉnh Tây thất thiền sư về triều thuyết pháp cúng dường.
Vì cung nhơn mến mộthỉnh cầu, nên có những lúc Tây thất thiền sư lưu lại trong triều thời gian suốttháng. Những thời gian lưu lại này, thiền sư được trọng vọng hầu hạ cúng dườngrất mực. Thiền sư lại có dịp tiếp xúc với nhiều bá quan văn võ đại thần vàhoàng hậu.
Sau những thời gianngắn lưu lại hoàng cung như vậy rồi. Tây thất thiền sư trở về tịnh thất tiếptục việc tu hành. Cũng theo như thời khắc hành thiền đã định. Cũng vẫn ngồithiền đối diện trước ngọn đèn của thầy Bổn Sư truyền trao khi viên tịch. Nhưngbây giờ tham thiền, tâm không còn kiên cố định tỉnh phẳng lặng như dòng nướctrong mát quán chiếu cội nguồn tâm linh như những ngày trước nữa. Trái lại, sựtĩnh lặng của dòng tâm thức bị đứt quãng bởi những hình ảnh cung miếu triềuvua, lâu đài lộng lẫy, vua quan đại thần, cung phi mỹ nữ diễm lệ hát xướng, yếntiệc thịnh soạn linh đình, kẻ hầu người hạ dưng cúng trịnh trọng v.v..., nhữnghình ảnh này cứ phút chốc hiện lên rõ rệt, xen tạp vào dòng tâm thức niệm Phậtthiền quán của thiền sư. Thiền sư muốn dứt bỏ tức khắc, bỏ hết tất cả nhữnghình ảnh tạp loạn đó, để cho dòng tâm thức niệm Phật thiền quán thật phẳng lặngtrong mát như ngày trước. Nhưng không dễ gì! Thiền sư ngồi hối tiếc suy nghĩbâng khuâng, muốn tìm lại sự phẳng lặng của tâm hồn thuở trước, nhưng khóquá!!! Rồi ngày lại qua ngày, thiền sư tiếp tục phấn khởi nhận lời cung thỉnh củanhà vua về triều giảng kinh luận đạo.
Sau mỗi lần ở triều vềlại tịnh thất, thiền sư cũng vẫn tiếp tục cố gắng tĩnh tâm niệm Phật thamthiền. Nhưng hình ảnh phú qúy của triều đình chiếm mất sự an lành thanh tịnhtrong mát của dòng tâm tư niệm Phật thiền quán. Cứ thế, hai trạng thái độngtĩnh trong cùng một con người của Tây thất thiền sư, cùng một cõi lòng muốntịnh mà cứ động, tự nhiên dằng co xung đột. Trong lúc đó, Đông thất thiền sưvẫn im lìm trong tịnh thất, tinh tấn chuyên cần, tâm trí mỗi ngày một khaithông, huệ tâm tăng trưởng.
Rồi vào một đêm nọ,trời đất bỗng nhiên mịt mù, lớp lớp mây đen tối tăm bao phủ, mưa giông sấm sét,chốc chốc làn chớp sáng lòe như xé tan màn tối dầy đặc bao phủ trời đất, tiếptheo những tiếng gầm sấm sét như nổ tung tư thế tham thiền, thân thể bất động,nhưng nội tại tâm tư rộn ràng, đang cố tìm lại dòng tâm thức thanh tịnh tĩnh mát lành năm xưa. Trong lúc đang tịnh tâm thiền quán, bỗng Tây thất thiềnsư mơ màng thấy trong bóng tối lù lù hiện ra một con quỷ lông lá dựng ngược,mắt to đỏ ngầu như máu, nhe răng nhảy đến vồ lấy thiền sư. Thiền sư hoảng hốt,đứng dậy, tung cửa tịnh thất vụt chạy ra ngoài làm cho ngọn đèn dầu ngã đổ, lửatheo vết dầu loang phừng cháy, không mấy chốc tịnh thất tranh lá thiêu rụithành tro.
Giữa cơn mưa đổ, giôngtố sấm sét, lửa cháy phừng phừng, Tây thất thiền sư hoảng hốt một mình cắm đầuchạy, thỉnh thoảng ngoái cổ nhìn lại phía sau, vẫn thấy con quỷ dữ nhe răngmiệng máu hùng hổ rượt theo, như muốn ăn tươi nuốt sống mình. Do đó, Tây thất thiềnsư lại càng sợ hãi, cố chạy trốn. Nhưng càng chạy càng thấy phía sau con quỷ cứrượt đuổi nạp theo. Kiệt sức mệt lả cả người, áo quần ướt át tả tơi, thiền sưhết đường, liền chạy chui vào núp giữa mấy hàng lu tương lớn của một ngôi chùanày vừa mới bị trộm. Tăng chúng trong chùa thức dậy đang lùng tìm bắt kẻ gian.Nhưng kẻ gian đã mau chân co giò chạy thoát từ lúc nào rồi. Mà nhà chùa sợ kẻtrộm còn ẩn núp đâu đây, nên tăng chúng trong chùa phân chia nhau từng toán đilục soát kỹ, trước khi đi ngủ lại.
Thì bất ngờ, một vịtăng thấy một người áo quần ướt tả tơi, ngồi co ro trong hốc tối giữa mấy hànglu tương. Một tiếng tri hô: Kẻ trộm đây rồi! Nó đây! Mọi người tay sẵn cầm cây,gậy, chổi, thùng, đổ xô đến chỗ có tiếng tri hô, nhanh như chớp dùng thế quyềnbắt trói đánh đập nhừ tử, rồi mang nộp lên quan. Quan tra hỏi, Tây thất thiềnsư tình thật, nhứt mực khai không có. Tự nói mình chính là Tây thất thiền sư,thầy của vua. Thế rồi quan huyện nhứt mực cho kẻ gian dám phạm thượng hổn láođáng chết, nên lại càng ra lệnh tra tấn nặng nề. Bấy giờ thân thể của Tây thấtthiền sư bầm sưng nhức nhối. Sau đó quan huyện trình tâu tự sự lên vua. Vua lấylàm lạ cho đòi mang kẻ gian về triều xét xử.
Mới nhìn, nhà vua thấykẻ trộm mình mẩy mặt mày sưng bầm, áo quần bụi bặm rách nát tả tơi, thật là thêthảm! Nhìn hồi lâu nhà vua rất đổi ngạc nhiên, nhận ra phạm nhân này không aikhác, chính là Tây thất thiền sư! Không cầm lòng xúc động, nhà vua cũng nhưthiền sư hai cõi lòng cùng một nhịp thông cảm xúc động xót xa. Bốn mắt nhìnnhau im lặng, nước mắt tuôn trào thành dòng trên má cả hai. Nhà vua càng nhìnthân hình tồi tàn của thiền sư, càng ngạc nhiên không hiểu nỗi do nguyên cớ nàođưa đẩy nhà tu đến nông nỗi này.
Nhà vua càng nhìnthiền sư với đôi mắt tìm hiểu, thương hại, thì sự hổ thẹn sâu kín tự đáy lònglại càng chế ngự cả tâm não thiền sư. Lúc đó, Tây thất thiền sư chỉ còn biếtcúi mặt xuống đất im lặng lắc đầu xấu hổ tự trách, như để dòng tâm tư xuôi chảyvề quá khứ. Quãng đời tu học đã qua, trải từng giai đoạn, từng giai đoạn hiệnra rõ rệt, từ thuở thơ ấu xuất gia theo thầy học đạo, được thầy trao truyền đèntuệ cho đến ngày nay phải ra nông nỗi này! Tất cả những hình ảnh đó đều rõ rànghiện ra trong tâm não, sống động như mới ngày nào đây, và chưa bao giờ rõ rệtnhư lần này. Rồi nghĩ đến người sư đệ của mình, Đông thất thiền sư bây giờ vẫnsống an lành tĩnh lặng tịnh tâm niệm Phật tham thiền. Tây thất thiền sư vô cùnghối hận, mình đã vọng tâm vướng mắc lợi danh mà không hay biết, để thân phảiđọa đày, lặn sâu vào hố thẳm như thế này!
An tĩnh trong tịnhthất tham thiền, Đông thất thiền sư biết rõ hết mọi việc xảy ra của người sưhuynh mình. Thiền sư chỉ còn biết thương xót nguyện cầu cho Tây thất thiền sưsớm hồi đầu tỉnh giác, dừng chân xa dần liên hệ với chỗ phú quý quyền uy, đểtrở lại đời sống thanh bần lạc đạo.
Sau khi nghe Tây thấtthiền sư kể hết đầu đuôi sự tình đã xảy ra, nhà vua cảm động thương tâm, Tâythất thiền sư được giải oan và nhà vua mời lưu lại triều đình để lo thuốc thangchữa trị những vết thương trên mình, và cũng để cúng dường y áo đồ dùng, rồiđưa thiền sư về núi.
Khi trở lại núi, Tâythất thiền sư nhìn tịnh thất của mình bây giờ chỉ còn là đống tro tàn! Thiền sưnhìn trời, nhìn đất, hướng vọng nhìn về ngôi già lam cổ tự của thầy mình, nơiđó ghi dấu hình bóng của thầy. Cũng chính nơi đó, vào những năm trước đây, ngàyngày mình hầu thầy học đạo, sớm chiều thời khóa tụng niệm, sống vô tư vô lự,vui với hoa lá cỏ cây chim muông thú rừng. Tâm hồn giải thoát làm sao!
Dòng tâm tư cứ tiếptục như cuộn phim hiện về mỗi lúc một rõ ràng, thiền sư ngồi trên tảng đá trầmtư. Giờ đây, thân thể tâm niệm mình đã xa đạo ngàn dặm lắm rồi! Lời thầy căndặn năm xưa trong đêm sắp viên tịch như phai mờ trong tâm thức! Đèn tuệ củathầy trao cho, giờ đây đã cháy thành tro! Mất hết tất cả! Tất cả đều không!Thiền sư khẻ lắc đầu than thở, nhìn đống tro tàn tự trách do mình quá ám muộinên mới ra nông nỗi, tịnh thất bỗng chốc thành đống tro bụi! Bản tâm mông muộithiêu rụi hết công đức giải thoát. Con đường giác ngộ hẳn còn chơi vơi mịt mù.Đối với đường tu thua xa sư đệ ta quá rồi!
Trời chưa tối hẳn.Trăng rằm vào cuối tiết hạ sang thu, ánh trăng trải sáng khắp trên cành câyngọn cỏ núi đồi. Rồi đột nhiên thiền sư đứng phắt dậy, đi về hướng tịnh thấtcủa người sư đệ, Đông thất thiền sư. Tịnh thất vẫn im lìm. Hàng trúc vẫn đứngnên thơ như thuở nào, thỉnh thoảng lay nhẹ theo chiều gió. Bên trong tịnh thất,Đông thất thiền sư vẫn tĩnh tọa tham thiền. Tây thất thiền sư cảm thấy khôngkhí nơi đây thanh tĩnh lạ thường, như đang thấm sâu vào lòng mình làm tăng thêmcảm giác mát nhẹ thư thới.
Không dám kêu cửa, Tâythất thiền sư đi vòng quanh tịnh thất của Đông thất thiền sư mấy lượt, lòng Tâythất thiền sư bồi hồi nôn nao, rất mong sao sớm được diện kiến với người sư đệ mình.
Đông thất thiền sưđang tham thiền biết rõ tâm trạng của sư huynh xao xuyến, nên xả thiền, đỡ nhẹcánh cửa lá bước ra trước hiên tịnh thất, với gương mặt thanh thoát hân hoanđón chào người sư huynh của mình, lâu ngày mới gặp.
Tình huynh đệ gần nhautrong ánh sáng đạo, dưới ánh trăm rằm tháng tám, trong làn gió mát dịu của núirừng, giữa khoảng trời bao la tịch tĩnh, Tây thất thiền sư hướng tâm hồi quangphản chiếu, nguyện sống đời lạc đạo bần tăng.
Để kết luận câu chuyệntrên đây, xin mượn lời vua Trần Thái Tôn, một vị thiền tổ Việt Nam đời Trần:
"Vĩnh vi lãngđãng phong trần khách
nhứt vãng gia hươngvạn lý trình".
Tạm dịch:
"Một thuở ra đitrong cát bụi
Ngàn năm mất dấu bóngvề quê".
Vậy các huynh đệ phảinên cẩn trọng giữ mình trong từng giây phút. Nếu sai một ly sẽ đi xa ngàn dặm.nên thận trọng giữ gìn thân, miệng, ý thanh tịnh, như thận trọng giữ gìn đôimắt mình để không bị rác bụi làm xốn xang.