Chủ nhật ngày 14/4 (tức 5.3 Â.L), Đức Nhiếp Chính Vương Gyalwa Dokhampa và tăng đoàn Truyền thừa quang lâm, cầu nguyện quốc thái dân an và ban đại lễ gia trì quán đỉnh cộng đồng Lục Độ Phật Mẫu Tara.
Từ hàng ngàn năm nay, đức Lục Độ Phật Mẫu là vị Bản tôn Mẫu tính được tôn kính nhất trong truyền thống Kim Cương thừa. Trong vô số kiếp quá khứ, khi thấu suốt căn nguyên của khổ đau luân hồi, với lòng từ bi vô hạn và hạnh nguyện lợi tha, Đức Lục Độ Phật Mẫu Tara đã phát nguyện rằng bất kỳ chúng sinh nào nghe được danh hiệu Ngài, nhìn thấy Ngài, trì niệm chân ngôn của Ngài thì tất những ước nguyện thế gian đều được sở cầu như ý, ngay cả tâm nguyện xuất thế gian cũng sẽ viên mãn. Phật Mẫu Tara vì thế nêu biểu cho phẩm chất giải thoát và bảo hộ hữu tình. Ngài là bậc từ mẫu đáp ứng mọi thỉnh cầu, giải thoát chúng sinh khỏi mọi hiểm nguy, chướng ngại trên phương diện thế gian và cả trên hành trình thực hành tâm linh.
Để giúp đỡ quý vị Phật tử có sự chuẩn bị và tri thức cần thiết khi tham dự Pháp hội, Drukpa Việt Nam xin giới thiệu toát yếu các khai thị của Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa và Đức Nhiếp Chính Vương Gyalwa Dokhampa về ý nghĩa và hướng dẫn thực hành pháp tu Lục Độ Phật Mẫu Tara.
OM JÉ TSUNMA PHAGMA DrOLMALA CHHAGTSHEL LO/
OM- Kính lễ Lục Độ Mẫu Bản tôn!
CHHAGTSHEL TARÉ NYURMA PAMO/
Chí thành đỉnh lễ quy y
Tara Phật Mẫu dũng uy phi thường,
TUTTARA YI JIGPA SELMA/
TUTTARA đại lực cường
Bao nhiêu sợ hãi Ngài thương giải trừ,
TURÉ DONKUN DJINPÉ DrOLMA/
Âm TURE nghĩa thắng dư
Mọi điều sở nguyện ban cho toại thành,
SOHA YIGÉ KHYÖELA DÜETO/
SOHA hai chữ diệu linh
Con nay đỉnh lễ, rạp mình tán dương!
1. Lợi ích của pháp tu trì Lục Độ Phật Mẫu Tara
Cuộc sống đời người luôn kèm theo các nỗi lo sợ bên trong và bên ngoài, bám suốt đeo đẳng từ khi sinh ra đến lúc chết đi, từ vô thủy luân hồi tới mãi về sau cũng như vậy. Sinh ra từ giọt nước mắt của lòng bi mẫn Quan Âm, Đức Lục Độ Phật Mẫu hiện diện nơi thế gian để ban gia trì trường thọ, cứu giúp chúng ta thoát khỏi mọi tai ách, mang tới hạnh phúc an lạc cho vô lượng chúng sinh. Ngài là Bậc hộ trì che trở, giải cứu chúng sinh khỏi tám nỗi sợ hãi, bao gồm những sợ hãi về tứ đại, các bi kịch thế gian và những hoạn nạn hiểm nguy nơi thân tâm. Bất kỳ ai nếu có bất kỳ khó khăn chướng ngại nào trong cuộc sống hoặc có bất kỳ mong nguyện nào chỉ cần chí thành cầu nguyện đến Ngài tức thời được giải trừ nguy hiểm.
Pháp thực hành Tara liên quan đến việc cầu nguyện lên 21 hóa thân Tara để bảo vệ chống lại các tác động phương hại khác nhau, chẳng hạn như Phật mẫu Tara an bình màu trắng chống lại sự suy thoái của thế giới và hữu tình, những thù nghịch công kích, ốm đau, ma thuật; đức Tara màu đỏ chống lại hiểm họa từ nước như lụt lội, chết đuối, ô nhiễm nước ăn, các tác động xấu do ham muốn gây ra; đức Tara màu vàng chống lại thảm họa từ thiên thạch, sấm chớt, mưa đá, tuyết lở cùng tác hại từ các sinh linh ma quỷ, thù hận, ghen tỵ; Phật mẫu Tara bảo vệ chống lại sự phương hại từ Vũ khí, giúp thế giới tránh cảnh chiến tranh, diệt vong, những thảm họa đối nghịch săn đuổi và tác hại của xúc tình phiền não sân giận… 21 hóa thân Tara tượng trưng cho hai mươi mốt hạnh nguyện, phù hợp với các mong cầu khác nhau của chúng sinh, giúp chúng sinh thành tựu tu tập và bảo hộ họ khỏi tai nạn nguy hiểm. Những ai có thể hành trì ba lần hoặc bảy lần cầu nguyện đến 21 Độ Mẫu mỗi ngày thì mọi mong nguyện rất dễ thành tựu, mọi chướng ngại sẽ dễ vượt qua.
Đức Lục Độ Phật Mẫu như thế được tôn xưng là mẹ của tất cả Chư Phật, mẹ của tất cả vũ trụ và của hết thảy yếu tố đất, nước, gió, lửa. Bởi Ngài nắm giữ toàn bộ sự gia trì nên bất cứ chúng sinh cầu nguyện điều gì với tâm chí thành tha thiết đều sẽ được như nguyện. Vì thế pháp thực hành lễ tán cúng dàng đức Lục Độ Phật Mẫu và việc trì niệm chân ngôn của Ngài là vô cùng quan trọng và thù thắng.
2. Ý nghĩa của Đức Tara
Kinh điển và giáo lý Kim Cương thừa đưa ra nhiều cách tiếp cận về ý nghĩa của Đức Tara. Theo cách hiểu chung nhất, Tara là một vị Phật. Dưới góc độ lịch sử, Ngài từng là một nữ hành giả phát Bồ đề tâm đạt giác ngộ tối thượng để lợi ích chúng sinh. Kinh điển cũng dạy rằng Đức Tara là giọt lệ của lòng bi mẫn, hiện thân công hạnh của Đức Phật Quan Âm. Theo cách hiểu khác, đức Tara là hiện thân của phẩm hạnh giác ngộ. Cuối cùng, cũng có thể hiểu đức Tara là tiềm năng Phật tính sẵn có nơi mỗi người.
Đức Tara là Phật
Đức Tara hay Lục Độ Phật Mẫu là đức Phật, bất kỳ ai đều có thể trở thành Phật. Chúng ta cần biết có rất nhiều đức Phật và các cõi Tịnh độ của các Ngài song tâm toàn tri chỉ có một và phẩm hạnh, công đức, trí tuệ của các bậc giác ngộ đều như nhau. Chư Phật đã loại bỏ được tất cả phiền não, tựu chung được chia làm hai loại: Phiền não chướng và Sở tri chướng. Những chướng ngại này là nguyên nhân khiến chúng ta mắc kẹt trong đau khổ luân hồi. Sở tri chướnglà vô minh phiền não vi tế trong tâm chúng sinh, phiền não chướnglà những trạng thái si mê, sân giận, tham ái và nghiệp quả đã vận chuyển vòng quay luân hồi. Bất kỳ đức Phật nào đều hoàn toàn xả ly mọi loại phiền não trên và hoàn thiện trưởng dưỡng tất cả phẩm hạnh như Từ, Bi Hỷ, Xả cũng như viên mãn công hạnh Ba la mật bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ.
Sắc tướng Phật mẫu của Đức Tara biểu trưng cho trí tuệ là nhân tố chính để loại bỏ vô minh. Sự vô minh này đã gây lầm lẫn thực tại và là gốc rễ của sự đau khổ. Người phụ nữ có xu hướng cảm nhận và nhận thức nhanh chóng nhờ vào trực giác và trí tuệ bí mật. Đức Tara biểu trưng cho phẩm hạnh này! Một cách không quản ngại, Ngài có khả năng giúp chúng ta phát triển những phẩm hạnh đó. Vì Ngài biểu trưng cho trí tuệ chứng ngộ thực tại, tâm tự do khỏi vô minh chấp thủ, bản ngã nên Ngài được tán thán là Mẹ của tất cả chư Phật.
Đức Tara là nhân vật lịch sử
Vô số kiếp trong một cảnh giới khác, có một công chúa tên là Yeshe Dawa. Nhờ sở học và trí tuệ của mình, nàng có lòng tin kiên cố với ba ngôi Tam Bảo. Nàng thấu hiểu đời sống bất như ý của bản chất luân hồi và quyết định giải thoát khỏi tất cả mọi đau khổ. Do thấu hiểu tất cả chúng sinh cũng giống như mình đều muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau nên Công chúa đã trưởng dưỡng lòng từ bi và tình yêu thương hướng về muôn loài hữu tình. Nàng không thích lối sống xa hoa trong cung điện vàng ngọc, và đã phát lời nguyện dẫn dắt hướng đạo cho hàng nghìn chúng sinh trên con đường giải thoát mỗi ngày trước bữa ăn sáng, cho hàng nghìn chúng sinh trước bữa ăn trưa, và thậm chí nhiều hơn nữa trước khi đi ngủ. Vì nhân duyên này, công chúa được tôn xưng là Arya(Bậc tôn quý) có nghĩa là Nàng có thể chứng ngộ trực tiếp bản chất của thực tại và danh xưng đó biểu lộ các hạnh nguyện giải thoát của Nàng. Một bậc lãnh tụ tâm linh của thời đó đã khuyên Công chúa hãy cầu nguyện để tái sinh và giác ngộ trong thân trượng phu. Nhưng Công chúa Yeshe Drawa đã phát nguyện thành tựu giác ngộ trong thân người nữ và còn liên tục hóa thân trở lại trong hình tướng nữ nhân để cứu độ hữu tình. Và từ đó, Ngài bắt đầu tích lũy những công đức trí tuệ cho đến khi đạt giác ngộ trong hình tướng Đức Phật Mẫu Tara.
Dù cho chúng ta là thân nam hay nữ thì Đức Tara lịch sử là tấm gương cho chúng ta. Giống như mọi hữu tình, Ngài cũng từng là một chúng sinh bình thường, cũng từng bị chi phối bởi xúc tình phiền não. Nhưng nhờ phát nguyện, tu tập Phật pháp rèn luyện tâm linh nên Ngài đã đạt được toàn giác. Giống như vậy, nếu biết phát đại nguyện và thực hành giáo pháp với niềm tinh tấn hỷ lạc, chúng ta cũng có thể được thành tựu giác ngộ như Ngài. Câu chuyện về Ngài là tấm gương sách tấn lớn lao đối với mỗi chúng ta trên con đường tu tập!
Tara là hiện thân công hạnh của Đức Quan Âm
Trong một bản Kinh Lục Độ Phật Mẫu khác có kể rằng: Đức Tara được sinh ra từ giọt nước mắt bi mẫn của Đức Quan Âm. Nhân duyên vì Đức Avalokiteshvara hay Đức Quan Âm đã không ngừng cứu độ chúng sinh để giải thoát tất cả thoát khỏi cõi địa ngục thống khổ. Sau khi hoàn thành công hạnh này, Ngài chỉ kịp nghỉ ngơi một chút, nhưng ngay sau đó Ngài nhận ra rằng trong cõi địa ngục thống khổ kia thoáng chốc lại đầy tất cả những chúng sinh mình vừa cứu khỏi, bởi họ lại vừa tạo tác thêm những ác nghiệp cực trọng. Trong khoảnh khắc tuyệt vọng, Đức Quan Âm đã nhỏ những giọt nước mắt bi mẫn vì lời nguyện cứu khổ cho những chúng sinh vô minh đó. Một trong những giọt nước mắt từ bi của Đức Quan Âm đã biến thành Đức Lục Độ Phật Mẫu Tara để khích lệ Ngài trên con đường Bồ Tát hạnh. Khi đó, Đức Tara đã phát nguyện rằng: "Xin Ngài đừng tuyệt vọng, tôi nguyện cùng Ngài giải thoát tất cả chúng sinh vô minh trong cõi luân hồi thống khổ mà không để sót một ai!"
Đức Tara phát nguyện rằng bất kỳ người nào nghe được danh hiệu Ngài, nhìn thấy Ngài, niệm danh hiệu Ngài thì tất nhưng ước nguyện thế gian đều được sở cầu như ý, ngay cả tâm nguyện xuất thế gian cũng được viên mãn. Nguyên do đức Tara nhìn thấy nỗi khổ của luân hồi vì mong nguyện thế gian của chúng sinh không được như ý. Ngài liền phát nguyện có đầy đủ năng lực giúp họ viên mãn được mọi sở cầu thế gian, và để rồi dần giúp họ giác ngộ về chân lý tuyệt đối. Nếu biết thực hành nghi quỹ Tara một cách đúng đắn với Bồ Đề tâm chân thật vì lợi ích giác ngộ cho hết thảy khổ não chúng sinh thì tất cả những gì mà chúng ta mong nguyện tự lợi lợi tha đều được thành tựu.
Đức Tara là hiện thân của các Công hạnh giác ngộ
Tâm đức Phật siêu vượt các khái niệm hạn hẹp hiện tại của phàm phu, tất cả các bậc giác ngộ đều thực hành vô số kiếp để tịnh hóa tâm và phát triển khả năng lợi ích chúng sinh. Mỗi hóa thân của chư Phật nêu biểu cho những phẩm hạnh giác ngộ như Từ, Bi, Hỷ, Xả, bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ. Đức Phật Mẫu Tara giống như những Bản tôn thiền định khác là một trong những hóa thân đó!
Nếu như mỗi hóa thân có thể biểu trưng nhấn mạnh vào những phẩm hạnh cụ thể, thì đức Tara xanh biểu trưng cho Công hạnh giác ngộ của mười phương ba đời chư Phật, trong khi đức Quan Âm là hóa thân của lòng Từ bi hay đức Văn Thù nêu biểu cho Trí tuệ... Các hóa thân của Đức Lục Độ Phật Mẫu Tara đều được mô tả là bản tôn có thể tiêu trừ sợ hãi, chướng ngại và đem lại sự viên mãn thành tựu cho chúng sinh, đặc biệt còn có đức Bạch Độ Mẫu Tara với khả năng giúp tiêu trừ bệnh tật và ban cho đời sống trường thọ.
Đức Tara là tinh túy Phật
Quan điểm thứ ba về Đức Tara là phản ánh của tiềm năng Phật tính hiện tại trong mỗi chúng ta, sẽ được phát triển toàn vẹn trong tương lai. Làm thế nào để chứng ngộ được Phật tính? Một cách ngắn gọn, chúng ta tu tập theo con đường giác ngộ, có ba điểm chính yếu nên khắc cốt ghi tâm:
- Thứ nhất: Phát tâm thoát khỏi luân hồi đau khổ.
- Thứ hai: Phát khởi và trưởng dưỡng Bồ đề tâm lợi ích chúng sinh.
- Thứ ba: Chính kiến, trí tuệ thực chứng tính khônghợp nhất với bản tâm tuyệt đối của chính mình.
Thân tâm vi tế của chúng ta có khả năng chuyển hóa thành thân tâm giác ngộ hoàn hảo như chư Phật. Khi quán tưởng đức Phật Mẫu Tara và sùng kính Ngài, chúng ta cần thấu hiểu rằng đó là công hạnh, trí tuệ, thần lực mà mình đang được viên mãn, nhờ đó sẽ được truyền cảm hứng để chuyển hóa tâm trên con đường thành tựu tối thượng!
Bởi năng lực phi thường vì lợi ích chúng sinh, từ hàng ngàn năm nay, đức Lục Độ Phật Mẫu là vị Bản tôn Mẫu tính được tôn kính nhất trong truyền thống Kim Cương Thừa. Ngày và đêm, lúc an bình hay loạn lạc chiến tranh luôn có các chúng sinh ở khắp nơi cầu nguyện thỉnh cầu sự gia trì và cứu độ của Ngài, và Ngài không hề từ nan quản ngại trong việc viên mãn công hạnh đó. Mật pháp cầu nguyện cúng dàng Tara là pháp tu trì cần thiết của tất cả hành giả Kim cương thừa để có thể thực hành Tam mật tương ưng, kết nối với Ngài và qua đó viên mãn tâm nguyện lợi tha; Đây chính là pháp thực hành phổ thông và thiết thực nhất mà người Phật tử nên hành trì để vững bước trên hành trình giác ngộ!
3. Ý nghĩa hình ảnh Bản tôn Lục Độ Phật Mẫu
Phương pháp hiệu quả để vượt qua chướng ngại và đạt được thành công trong cuộc sống cũng như thành tựu giác ngộ là sự thực hành, cầu nguyện thỉnh cầu Đức Tara. Ngài là bậc giải thoát, hiện thân của trí tuệ, lòng bi mẫn, tình yêu thương và đặc biệt là công hạnh thiện xảo của mười phương chư Phật. Mỗi chi tiết trong hình ảnh của đức Tara nêu biểu của các khía cạnh khác nhau của con đường Đạo giải thoát. Chúng ta nên thiền quán về đức Tara để trưởng dưỡng Bồ đề tâm từ sâu thẳm trong trong tim, phát triển tình yêu thương và lòng bi mẫn mạnh mẽ, đích thực hướng đến tất cả chúng sinh, làm tươi mới tim mình, chí tâm với pháp thực hành và lân mẫn với Thượng sư chứng ngộ để thực hành Thượng Sư Tara giúp chuyển hóa tất cả những thân, khẩu, ý nhiễm ô của bạn trở thành thân, khẩu, ý linh thiêng của đức Lục Độ Phật Mẫu.
Đức Tara là hiện thân hợp nhất của đại lạcvà tính không. Sự đại hỷ lạc phương tiện thiện xảo và trí tuệ tính không của tất cả chư Phật đều xuất hiện trong sắc thân của Đức Tara để truyền cảm hứng cho chúng ta phát triển Bồ đề tâm, trưởng dưỡng những công hạnh lợi tha. Nhờ vào hiểu biết các ý nghĩa, biểu tượng và các phẩm chất của sắc thân của Đức Tara, chúng ta sẽ có niềm tin chí thành và tinh tấn đi theo con đường Ngài hướng đạo để tỏa chiếu những phẩm chất, công hạnh, thần lực Tara trong tự thân chúng ta.
Trước hết, màu sắc của Đức Phật Mẫu Tara biểu trưng các công hạnh thành tựu. Dù Ngài có cùng phẩm hạnh như là các hiện thân của bậc toàn tri khác, Đức Tara đặc biệt hiện thân cho các công hạnh giác ngộ của chư Phật, gia trì đem lại lợi ích và chúng ta. Thêm vào đó, Ngài đại diện khía cạnh thanh tịnh của Không đại, vì Không đạibao hàm tất cả các sự vật hiện tượng. Những ảnh hưởng và công hạnh của Đức Tara làm những phẩm hạnh vô ngã vị tha tiềm tàng của chúng ta nở hoa giác ngộ thơm ngát muôn phương. Những hạt giống tốt mọc dễ dàng là niềm vui của người nông dân. Cũng vậy, sắc xanh của Ngài nêu biểu cho sự thành công của sự xả bình đẳng trong thế giới trần tục, cũng như trong sự phát triển thế giới tâm linh cho chúng ta cảm giác vui vẻ, hy vọng và lạc quan. Những tâm nguyện của Đức Tara có thể dễ dàng nở hoa kết trái và hạnh nguyện của Ngài nhanh chóng cảm ứng tới chúng sinh không thể nghĩ bàn. Vì lý do này, bằng sự quán tưởng và cầu nguyện Đức Tara, chúng ta có năng lực để tạo ra nhân của hạnh phúc và sự thông tuệ trong sự thực hành pháp trên con đường tự lợi, lợi tha.
Sắc thân của Đức Tara kết tinh bằng ánh sáng và thuộc về phương Bắc. Thân ánh sáng của Ngài xuất hiện nhưng không thể nắm bắt, giống như cầu vồng, ảo cảnh. Thân ánh sáng này là biểu trưng cho sự hợp nhất của hai chân lý: Chân lý tương đối và Chân lý tuyệt đối. Trong mức độ chân lý tương đối, Đức Tara xuất hiện tồn tại. Ấy vậy mà khi chúng ta tìm kiếm sự tồn tại tuyệt đối của Ngài thì không thể tìm thấy bất kỳ thứ gì tồn tại một cách cố hữu, độc lập từ các nhân và điều kiện, các phần, thuật ngữ và khái niệm. Đức Tara xuất hiện một cách tương đối giống như ảo giác, không thể tìm thấy nắm bắt được và chỉ là tính không.
Thân của Đức Tara diễn tả sự nội chứng bên trong và các công hạnh vị tha bên ngoài. Tư thế vũ điệu du hý của Ngài tự do, cởi mở và thân thiện, chân phải của Ngài duỗi xuống chỉ ra sự sẵn sàng bước xuống cõi luân hồi đau khổ để cứu giúp chúng ta và chúng sinh vô minh. Nhờ năng lực của lòng bi mẫn, Đức Tara có thể ứng hiện trong mọi cõi giới. Ngài không trốn tránh sự khổ đau mà đối mặt nó một cách vô úy và từ bi bằng cách trung hòa đau khổ.
Chân trái Ngài co vào phía trong lòng, tỏ rõ rằng Ngài kiểm soát toàn bộ năng lượng vi tế bên trong, từ bi không quản ngại vấn đề gì, cho dù ai đó tán thán hay hủy báng, làm tổn hại hay giúp đỡ, năng lực của Ngài không vì thế trở nên mất cân bằng và tâm Ngài không rời bình đẳng xả.
Tay phải Ngài trong tư thế thực chứng siêu việt bằng cách thực hành tu tập để tự thân thành tựu sự chứng ngộ. Tư thế này cũng gọi là Thí Nguyện Ấn là tư thế bố thí nêu biểu Ngài sẵn sàng ban cho tài sản, tình yêu thương, sự bảo hộ và giáo pháp để tất cả chúng sinh tùy theo những nhu cầu và những mong ước của họ đều được viên mãn.
Tay trái của Ngài là Ấn Tam Bảo, với ngón tay cái chạm vào ngón tay đeo nhẫn và 3 ngón tay kia hướng thẳng, 3 ngón duỗi thẳng nêu biểu Tam bảo Phật, Pháp, Tăng có nghĩa rằng giao phó bản thân chúng ta nương tựa Ba ngôi báu và thực hành giáo pháp giải thoát. Ngón cái và ngón áp út chạm nhau nêu biểu chúng ta có thể hợp nhất lòng từ bi hỷ lạc và trí tuệ tính không.
Tay phải của Đức Tara và chân phải đều duỗi hướng ra phía ngoài, nhấn mạnh các công hạnh hạnh từ bi vị tha, phương tiện thiện xảo của con đường giác ngộ. Tay trái và chân trái của Ngài đều thu vào phía người biểu đạt sự điềm tĩnh an bình bên trong đạt được thông qua việc thực hành trí tuệ của đạo giải thoát.
Trong mỗi bàn tay của Ngài trì giữ hoa Utpala, hoa sen xanh. Bên phía tay trái, một bông nụ là nêu biểu chư Phật tương lai, bông nở hoàn toàn là nêu biểu chư Phật quá khứ, bông đang nở là nêu biểu đức Phật hiện tại. Trên vương miện của Đức Tara là Bản Sư Di Đà an bình và mỉm cười. Vì đức Phật Di Đà là bậc thượng sư hướng đạo tâm linh của Đức Tara, được an trí trên vương miện của đức Tara nhằm nêu biểu tầm quan trọng khi có bậc Căn bản Thượng sư đầy đủ phẩm hạnh trí tuệ và lòng từ bi dẫn dắt đệ tử đi đúng trên con đường giác ngộ, và cũng nêu biểu Đức Tara luôn trú tâm vào giáo pháp mà Ngài được đón nhận từ bậc Thượng Sư của mình. Điều này nhắc nhở chúng ta thực hành noi theo thiện hạnh của Ngài.
Tiếp theo là các sức trang hoàng. Nếu phàm nhân chúng ta thường trang điểm cho thân thể mình những trang sức bên ngoài để trông cho đẹp mắt thì vẻ đẹp tiềm ẩn bên trong đức Tara là lòng từ, bi, hỷ, xả mới thực sự là trang sức của Ngài. Sáu sức trang hoàng: Vòng cổ, vòng tay, khuyên tai, vòng chân, đai lưng, vương miện bằng ngọc báu sáng chói trang hoàng trên sắc thân Ngài nêu biểu cho sự viên mãn sáu Ba la mật là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định và trí tuệ Ba La Mật và mọi công hạnh lợi tha này là trang sức giải thoát của báo thân Ngài.
Đức Tara cũng trang hoàng với ba chữ chủng tử, chủng tử OMtrên vương miện, chữ AHtại luân xa cổ họng và chữ HUNGtại luân xa tim. Ba chữ chủng tử này tương ứng với thân, khẩu, ý giác ngộ của Phật và nêu biểu cho Tam quy: Phật, Pháp, Tăng. Những chữ chủng tử này thường dùng làm đối tượng vi tế khi hành giả chú tâm thiền định. Ba chủng tử tự nhắc nhở những phẩm hạnh mà chúng ta đang trưởng dưỡng trong chính mình, đó là kết quả thực hành Phật Pháp. Mỗi đặc điểm sắc tướng của Đức Tara minh họa cho toàn bộ con đường giác ngộ đạt đến Phật quả và Tara là hợp nhất các tinh túy đức tính, thần lực và công hạnh giác ngộ.
4. Cốt yếu quán tưởng thực hành Bản tôn Lục Độ Phật Mẫu Tara
Để có thể thực hành pháp tu trì Lục Độ Phật Mẫu Tara, các Phật tử cần tìm cầu và thụ nhận quán đỉnh Tara để đón nhận dòng ân phúc gia trì từ Đức Phật Mẫu Tara, từ bậc Kim Cương Thượng Sư bất khả phân với Bản tôn Tara và từ Truyền thừa giác ngộ để được phép tu tập, trì tụng chân ngôn cũng như tự quán thân mình là Đức Lục Độ Phật Mẫu.
Trước khi đi vào phần nghi quỹ chính, hành giả phải thực hành quy y và phát Bồ đề tâm. Việc này vô cùng quan trọng bởi nguyên nhân của những khổ đau chúng ta đang phải chịu là vì bám chấp vào bản ngã, chỉ khư khư nghĩ đến cá nhân, gia đình và những người thân của mình. Tâm chúng ta rất ít khi mở rộng để nghĩ đến người khác. Chính về những tâm yêu ghét như vậy chúng ta tạo vô số ác nghiệp với kết quả là sự khổ đau và trôi lăn trong luân hồi sinh tử. Bởi vậy, khi thực hành Phật Pháp, chúng ta không chỉ cầu nguyện riêng cho cá nhân mình, mà còn phải phát tâm Bồ đề, mở rộng tâm mình cầu nguyện cho tất cả pháp giới chúng sinh, qua đó chúng ta bớt đi bản ngã và biết sống vô ngã vị tha hơn. Sau đó chúng ta sẽ triệu thỉnh Đức Phật Mẫu Tara và quán tưởng Ngài hiển diện sống động, bất khả phân với bậc Căn bản Thượng sư (là tinh túy của Tam căn bản và là sự hợp nhất của tất cả chư Thượng sư giác ngộ của Truyền thừa Drukpa). Nếu có thời gian thì có thể trì tiếp lời cầu nguyện tới 21 Lục Độ Mẫu, nếu không có thời gian thì chúng ta sẽ trì thẳng vào câu chân ngôn “Om Tare Tutare Ture Soha”, có thể trì 3 tràng, 7 tràng hoặc 21 tràng, càng nhiều càng tốt. Và sau khi trì chú xong chúng ta sẽ quán tưởng hòa tan. Quán tưởng Đức Phật Mẫu Tara hòa nhập tan vào trong mình và bản thân chúng ta an trụ trong tự tính bất khả phân với tâm giác ngộ của Đức Phật Mẫu Tara. Không nghĩ về quá khứ, không nghĩ về tương lai, không phân biệt hiện tại, an trú trong trạng thái vô niệm tỉnh giác như vậy càng lâu càng tốt.
Việc quán hòa tan để an trụ trong tự tính tâm là một việc vô cùng quan trọng. Chẳng hạn khi tâm chúng ta đang nhiều phiền não khổ đau, đang nhiều căng thẳng, chúng ta có thể quán Đức Pháp Vương bất khả phân với Đức Phật Mẫu Tara rồi hòa nhập tan vào trong chúng ta, chúng ta an trụ nương tựa hòa nhập làm một trong tự tính tâm giác ngộ của Ngài. Nhờ quán tưởng như vậy, thư giãn như thế chúng ta sẽ giảm bớt căng thẳng lo âu trong đời sống phàm tình. Và tâm chúng ta sẽ thư giãn hơn, chúng ta sẽ hiểu ý nghĩa của những của cải vật chất, những thứ thành công mang tính thế gian chỉ có mang tính chất tương đối, còn hạnh phúc chân thật nhất chính là hạnh phúc chúng ta tìm được sự nghỉ ngơi an lạc trong đáy sâu tâm hồn, sự tỉnh giác của chính mình.
Cầu nguyện 21 Lục Độ Mẫu
· OM JÉ TSUNMA PHAGMA DrOLMALA CHAGTSHEL LO
OM- Kính lễ Lục Độ Mẫu Bản tôn!
CHAGTSHEL TARÉ NYURMA PAMO
Chí thành đỉnh lễ quy y
Tara Phật Mẫu dũng uy phi thường,
TUTTARA YI JIGPA SELMA
TUTTARE đại lực cường
Bao nhiêu sợ hãi ngài thương giải trừ,
TURÉ DONKUN JINPÉ DrOLMA
Âm TURE nghĩa thắng dư
Mọi điều sở nguyện ban cho toại thành,
SOHA YIGÉ KHYÖELA DÜEDO
SOHA hai chữ diệu linh
Con nay đỉnh lễ rạp mình tán dương.
· NGUYỆN CẦU PHẬT MẪU CỨU ĐỘ TỐC DŨNG TARA
CHAGTSHEL DrOLMA NYURMA PAMO
Chí thành đỉnh lễ quy y
Cứu Độ Tốc Dũng nan nghì Tara
CHENNI KÉCHING LOGDANG DrAMA
Hào quang ánh mắt rọi xa
Như muôn tia chớp tỏa ra sáng ngời
JIGTEN SUMGON CHU KYÉ SHELGYI
Thánh Tôn ba cõi lệ rơi
GÉSAR JÉWA LÉNI JUNGMA
Hoa sen hóa hiện ngài thời đản sinh.
CHAGTSHEL TONKEI DAWA KUNTU
Chí thành đỉnh lễ quy y
Bách Thu Lãng Nguyệt nan nghì Tara
GANGWA GYANI TSEGPEI SHELMA
Tôn nhan, vẻ nguyệt chan hòa
Tịnh không trần cấu hợp về một nơi,
KARMA TONGTHrAG TSHOGPA NAMKYI
Như ngàn tinh tú rạng ngời
RABTU CHEWEI ÖERAB BARMA
Uy quang thù thắng muôn loài sánh sao.
CHAGTSHEL SERNGO CHHUNÉ KYÉKYI
Chí thành đỉnh lễ quy y
Lam Kim Cứu Độ nan nghì Tara
PADMÖE CHAGNI NAMPAR GYENMA
Diệu kỳ một đóa liên hoa
Tay ngài trì giữ rất là trang nghiêm,
JINPA TSONDrUB KA THUB SHIWA
Bố thí, giới trì, nhẫn an
ZÖEPA SAMTEN CHÖEYUL NYIMA
Tinh tấn, thiền định, tuệ viên mãn đầy
CHAGTSHEL DESHIN SHEGPEI TSUGTOR
Chí thành đỉnh lễ quy y
Như Lai Đỉnh Kế nan nghì Tara
THAYÉ NAMPAR GYELWAR CHÖEMA
Công hạnh siêu thắng hằng sa,
Sáu ba la mật đã là viên dung,
MALÜE PHAROL CHINPA THOBPEI
Các bậc Pháp tử vô song
GYELWEI SÉ KYI SHINTU TENMA
Của chư Thắng Giả hết lòng tán dương.
CHAGTSHEL TUTTARA HUNG YIGÉ
Chí thành đỉnh lễ quy y
Tara Tự Mẫu TUTTARE HUNG
DÖEDANG CHOGDANG NAMKHA GANGMA
Âm thanh viên mãn khôn cùng
Lòng từ tran trải khắp vùng muôn phương;
JINTEN DUNPO SHABKYI NENTÉ
Bảy cõi dưới gót chân sen,
LÜEPA MÉPAR GUG PAR NÜEMA
Bi tâm thu nhiếp chấn yên hữu tình.
CHAGTSHEL GYAJIN ME LHA TSHANGPA
Chí thành đỉnh lễ quy y
Hỏa Thiên Thích Phạm nan nghì Tara
LUNGLHA NA TSHOG WANGCHUG CHÖEMA
Phong Thần, Tự Tại chủ thiên
JUNGPO ROLANG DrIZA NAMDANG
Hương thơm, nhiều bộ quỷ ma kiếm tìm
NÖEJIN TSHOGKYI DUNNÉ TÖEMA
Dạ xoa ma chúng một niềm
Hân hoan tán thán tôn sùng Tara.
CHAGTSHEL TrAT CHÉJA DANG PHET KYI
Chí thành đỉnh lễ quy y
Tara ’TRAT PHET’ uy nghi độ từ,
PHAROL THrULKHOR RABTU JOMMA
Chướng ngăn hết thảy không dư
Do ngài phù hộ giải trừ tiêu tai
YÉKUM YONKYANG SHABKYI NENTE
Chân phải co, trái duỗi dài
MÉBAR THrUGPA SHINTU BARMA
Trong vầng lửa cháy rực ngời hào quang.
CHAGTSHEL TURÉ JIGPA CHHENPÖE
Chí thành đỉnh lễ quy y
TURE Phẫn Nộ nan nghì Tara
DÜE KYI PAWO NAMPAR JOMMA
Muôn loài oán quỷ hận ma
Dũng uy hàng phục thời đà chuyển tâm
CHU KYÉ SHELNI THrO NYER DEN DZÉ
Mặt sen đượm một từ dung
DrAWO THAMCHÉ MALÜE SÖEMA
Mi chau hóa giải mê lầm oan khiên
CHAGTSHEL KONCHOG SUMTSHON CHAGGYEI
Chí thành đỉnh lễ quy y
Tam Bảo Nghiêm Ấn nan nghì Tara
SORMÖE THUGKAR NAMPAR GYENMA
Giữa tâm bắt ấn ngón hoa
MALÜE CHOGKYI KHORLÖE GYENPEI
Uy nghiêm luân báu nguy nga khắp trời
RANGGI ÖE KYI TSHOGNAM THrUGMA
Hào quang thân báu sáng ngời
Muôn phương chiếu rọi nơi nơi huy hoàng.
CHAGTSHEL RABTU GAWA JIPEI
Chí thành đỉnh lễ quy y
Uy Đức Hoan Hỷ nan nghì Tara
WU GYEN ÖE KYI THrENGWÉ PELMA
Vương miện nghiêm sức chói lòa
SHÉPA RABSHÉ TUTTARA YI
Cười vang hoan hỷ TUTTARE tràng
DÜEDANG JINTEN WANGDU DZÉMA
Các loài ma quỷ thế gian
Ngài thời nhiếp phục quy hàng chuyển tâm
CHAGTSHEL SASHI KYONGWEI TSHOGNAM
Chí thành đỉnh lễ quy y
Thủ Hộ Chúng Địa nan nghì Tara
THAMCHÉ GUGPAR NÜEMA NYIMA
Uy lực triệu bách thần ra
THrO NYER YOWEI YIGÉ HUNG GI
Chau mày dao động hiện là chữ Hung
PHONGPA THAMCHÉ NAMPAR DrOLMA
Muộn phiền đau khổ bần cùng
Ngài đều phổ độ mọi vùng chúng sinh
CHAGTSHEL DAWEI DUMBÜE WU GYEN
Chí thành đỉnh lễ quy y
Đỉnh Quan Nguyệt Tướng nan nghì Tara
GYENPA THAMCHÉ SHINTU BARMA
Vương miện diệu thắng chói lòa
RELPEI THrÖENA ÖE PAGMÉ LÉ
Ở nơi búi tóc Di Đà hiện sinh
TAGPAR SHINTU ÖERAB DZÉMA
Từ đó phóng chiếu quang minh
Đủ bao diệu bảo hữu tình lợi tha.
CHAGTSHEL KELPEI THAMEI MÉTAR
Chí thành đỉnh lễ quy y
Như Tận Kiếp Hỏa nan nghì Tara
BARWEI THrENGWEI WÜENA NÉMA
Trong búi tóc, lửa kiếp không
YÉ KYANG YONKUM KUNNÉ KORGEI
Chân phải thẳng duỗi, gập cong chân này
DrAYI PUNGNI NAMPAR JOMMA
Những bầy oán địch quân cai
Ngài đều tận diệt chẳng sai chút nào.
CHAGTSHEL SASHII NGÖELA CHAGGI
Chí thành đỉnh lễ quy y
Thủ Án Đại Địa nan nghì Tara
THILGYI NUNCHING SHABKYI DUNGMA
Giẫm chân trấn yểm hàng ma
THrO NYER CHEN DZÉ YIGÉ HUNGGI
Mày chau phẫn nộ hiện là chữ Hung
RIMPA DUNPO NAMNI GEMMA
Bảy hiểm nạn, mọi tai ương
Ngài thời hàng phục yêu thương hộ trì.
CHAGTSHEL DÉMA GÉMA SHIMA
Chí thành đỉnh lễ quy y
An Thiện Tĩnh Tịch nan nghì Tara
NGA NGEN DÉSHI CHÖEYUL NYIMA
Niết bàn tịch diệt an hòa
SOHA OM DANG YANGDAG DENPÉ
SOHA - OM chữ thật là tương ưng
DIGPA CHENPO JOMPA NYIMA
Biết bao tai họa quá chừng
Ngài khéo cứu độ tiêu dừng nạn tai.
CHAGTSHEL KUNNÉ KORRAB GAWEI
Chí thành đỉnh lễ quy y
Phổ Biến Cực Hỷ nan nghì Tara
DrAYI LÜENI RABTU GEMMA
Trái Phật Pháp oán lìa xa
YIGÉ CHUPEI NGAGNI KÖEPEI
Chân ngôn mười chữ rất là linh thiêng
RIGPA HUNG LÉ DrOLMA NYIMA
Âm thanh minh chú chữ HUNG
Vang xa khắp chốn tận cùng mười phương.
CHAGTSHEL TUREI SHABNI DABPÉ
Chí thành đỉnh lễ quy y
TURE Đốn Túc nan nghì Tara
HUNGGI NAMPEI SABON NYIMA
Từ chữ HUNG ngài hiện ra
RIRAB MENDAHRA DANG BIGJÉ
Mạn đà la với Bảo Đà, Tu Di
JIGTEN SUMNAM YOWA NYIMA
Đến như ba cõi muôn nơi
Làm cho chấn động đất trời chuyển rung
CHAGTSHEL LHAYI TSHOYI NAMPEI
Chí thành đỉnh lễ quy y
Cụ Hải Thâm Tướng nan nghì Tara
RIDAG TAGCHEN CHAGNA NAMMA
Dấu Nai thiêng trong tay hoa
TARA NYIJÖE PHET KYI YIGE
TARA với PHET tụng trì luôn luôn
DUGNAM MALÜE PANI SELMA
Độc kia các chất muôn vàn
Ngài năng diệt tận không còn sót dư.
CHAGTSHEL LHAYI TSHOGNAM GYELPO
Chí thành đỉnh lễ quy y
Chư Thiên Vân Tập nan nghì Tara
LHADANG MI AM CHIYI TENMA
Là nơi quy kính an hòa
Chư thiên nơi cõi Ta Bà phi thiên
KUNNÉ GO CHAG GAWEI JI KYI
Đức uy, hỷ duyệt, giáp kiên
TSÖEDANG MILAM NGENPA SELMA
Đấu tranh, ác mộng thảy liền tiêu tan.
CHAGTSHEL NYIMA DAWA GYÉPEI
Chí thành đỉnh lễ quy y
Quảng Viên Nhật Nguyệt nan nghì Tara
CHENNYI POLA ÖERAB SELMA
Hào quang ánh mắt chói lòa
HARA NYIJÖE TUTTARA YI
HARA hai biến, TUTARE trì,
SHINTU DrAGPOI RIMNÉ SELMA
Bao tật bệnh, mọi độc dư
Ngài đều thiện xảo giải trừ độ sinh.
· NGUYỆN CẦU PHẬT MẪU CỤ TAM BẢO TƯỚNG TARA
CHAGTSHEL DÉ NYI SUMNAM KÖEPÉ
Chí thành đỉnh lễ quy y
Cụ Tam Bảo Tướng nan nghì Tara
SHIWEI THUDANG YANGDAG DENMA
Thiện tịnh uy lực chan hòa
Diệt tan hiểm họa, ma tà, ách tai
DONDANG ROLANG NÖEJIN TSHOGNAM
Dạ xoa con quỷ khởi bày
Ngài đều nhiếp phục chẳng chừa một ai
JOMPA TURÉ RABCHOG NYIMA
Chữ TURE, thật là đây
Chú thiêng siêu thắng ách tai tận trừ.
TSAWEI NGAGKYI TÖEPA DIDANG
Căn bản minh chú bản tôn,
CHAGTSHEL WANI NYISHU TSACHIG
Tara hăm mốt Hóa thân các ngài
Tâm thành trì tụng lễ bày
Muôn lời tán thán thời nay viên tròn.
Drukpa Việt Nam