Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tín Tâm Minh Tịch Nghĩa Giải

11/04/201100:41(Xem: 5055)
Tín Tâm Minh Tịch Nghĩa Giải

TÍN TÂM MINH TỊCH NGHĨA GIẢI
Tác Giả: Thiên Mục Trung Phong Hòa Thượng
Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Duy Lực

LỜIDỊCH GIẢ

Tin_Tam_minhPhật Thích Ca nói : "Mọi chúngsanh đều có Phật tánh", tất cả Phật tử đều tin được.Lại tin Phật tánh chẳng thể giảm bớt, cũng chẳng thểgián đoạn, vì giảm bớt gián đoạn là sanh diệt luân hồi,nếu Phật tánh còn phải luân hồi, thì kiến tánh thành Phậtcũng vô ích.

Phật tánh tức là tự tâm,nếu người tin mình có Phật tánh, tức là tin tự tâm. Phậttánh không thể giảm bớt, thì tất cả thần thông trí huệnăng lực saün đầy đủ bằng chư Phật. Phật tánh khôngthể gián đoạn, thì mọi chúng sanh hiện đang làm Phật.

Vậy, Phật tánh tức là tựtâm, thì tự tâm của mọi người đã saün đầy đủ tấtcả năng lực, bằng như chư Phật, thế thì việc lý giảiđều là thêm bớt cho tự tâm. Nên Tổ Trung Phong làm bài TÍNTÂM MINH TỊCH NGHĨA GIẢI này, cố tẩy sạch lý giải đểhiển bày chánh ngộ, cho bổn lai diện mục (tự tâm) trọnvẹn hiện khắp không gian và thời gian.

Quyển TÍN TÂM MINH TỊCH NGHĨAGIẢI này trích từ Quảng Lục gồm 30 quyển của ngài TrungPhong, in trong tập số 499 của Tích Sa Đại Tạng Kinh.

Vì có người chỉ đem phầnnghĩa giải trong MINH này in ra phổ biến, mà lược bỏ nhữngphần khai thị và phủ nhận của ngài Trung Phong, thành điênđảo Phật pháp, liên lụy Tổ Sư, nên chúng tôi dịch hếttoàn bộ (gồm 4 phần : khai thị, nghĩa giải, tịch nghĩa giảivà kệ kết thúc), để hiển bày ý chính của Tổ, mong độcgiả xem xét cho kỹ!


THIÊN MỤCTRUNG PHONG HÒA THƯỢNG
QUẢNGLỤC

TÍN TÂMMINH TỊCH NGHĨA GIẢI

BÀITỰA CỦA NGÀI TRUNG PHONG

Từng nghe Sơ Tổ Đạt Ma nóiđạo trực chỉ bất lập văn tự, nhưng vừa truyền qua haiđời đến đời thứ ba là tổ Tăng Xán, thì lại làm ra bàiTÍN TÂM MINH gồm 584 chữ. Vậy có phải là biến gia phong củachư tổ trở lại kiến lập văn tự chăng? Hoặc nói chẳngphải, ấy chỉ là muốn hiển bày cái đạo trực chỉ chohành giả đời sau được đầy đủ chánh tín, phá tà chấpmà thôi.

TÍN là gì? Là tin bản thểtự tâm rộng lớn như chư Phật, cùng khắp không gian thờigian, khiến cho được tự tin mà ngộ nhập, chẳng nhờ tuchứng; nghĩa là hễ bước vào cửa tin, quyết chẳng lui sụt,nên bài TÍN TÂM MINH nầy với thuyết BẤT LẬP VĂN TỰ củatổ sư trải qua bao đời chẳng trái nhau. Như thế, sự lậpngôn của Tam Tổ thực là chí thành để gánh vác pháp thiềntrực tiếp này. Nhưng tiếc rằng những học giả đời naythường kẹt nơi nghĩa giải, chẳng thể hoát nhiên tự ngộdiệu tâm, thấu rõ nguồn gốc, hợp với chánh tín, lại đembài TÍN TÂM MINH này làm dẫn chứng đàm luận, giống nhưmạt vàng rơi vào mắt, thành ra nghịch lại ý Tổ mà chẳngtự biết. Do đó, tôi soạn ra bài này, mỗi đoạn 2 câu, dùnglời và kệ để sáng tỏ bản ý của Tổ, không dám khoe khoangkiến văn cho là thù thắng. Thực ra chỉ muốn quét sạch nghĩagiải, hiển bày chánh ngộ, nhắc nhở người đồng tham, khíchlệ chính mình mà thôi. Nếu có người cảm thấy không vừaý, thì tội của tôi làm sao tẩy sạch, cho nên đặt tên bàinày là "TÍN TÂM MINH TỊCH NGHĨA GIẢI".

CHÁNH VĂN

l. CHÍ ĐẠO VÔ NAN, DUY HIỀMGIẢN TRẠCH

DỊCH

Đạo cùng tột chẳng có gìkhó, chỉ vì phân biệt mới thành khó.

LỜI KHAI THỊ

Thể dụng của tự tánh cùngkhắp hư không, trí tuệ của con người chẳng thể suy lường.Mở cửa nhà lớn nhiệm mầu vô biên, vượt trên vạn trượngchiều sâu mà không đáy. Cơ xảo của chư Tổ như : Tiếnghét Kim Cang Vương của Lâm Tế sấm sét oanh liệt, muốn nhìnbóng cũng còn khó, huống là thấy hình; Uy thế cây gậy củaĐức Sơn như gió bão điện chớp, đuổi theo không kịp. Đàotạo ra chư Tổ chẳng cho mình có công lao, gánh biển vác núichẳng cần ra sức. Ông già Thích Ca thuyết pháp 49 năm, bàntay chỉ có thể nắm bắt hư không, 1700 Bạch-niêm-tặc (ámchỉ Tổ Sư đã kiến tánh triệt để) có miệng chỉ có thểtreo trên vách tường. Rất saün sàng mà khó hiểu biết, muốnngay trước mặt chỉ bảo họ, thì gai gốc đã nổi đầytrước cửa.

LỜI NGHĨA GIẢI

Tổ Sư nói "CHÍ ĐẠO VÔ NAN,DUY HIỀM GIẢN TRẠCH". Người nghĩa giải rằng : 2 câu nầylà cương yếu, cũng là bản chỉ của bài MINH. Nhưng mộtchữ TIN bao gồm ngộ chứng, chẳng phải chữ tin của tínhạnh. Cũng như các vị trong hội Pháp Hoa, lãnh hội quyềntrí nhập vào thật trí, lập ra Phẩm Tín Giải để tỏ bàynguyện vọng. Chư Tổ thấy đó gọi là Chí-đạo, Chư Phậtchứng đó gọi là Bồ-đề, chúng sanh mê đó gọi là Vô-minh,giáo môn hiển bày đó gọi là Biển-giác, đều là tên gọikhác biệt của một tâm, cho đến bao gồm danh tướng, thấunhập sắc không, muôn ngàn đề mục, đường lối dù khácnhau, đâu có sai trái tốt xấu, cũng không có ngăn cách mêngộ, tất cả đều do đây mà hiển bày. Như cây bách củaTriệu Châu, vòng kim cang của Dương Kỳ, cái chậu đất bểcủa Mật Am, bánh sắt có nhân của Đông Sơn, giống như dịđoan cùng tà pháp sôi nổi, vậy thì biết lời nói "CHÍ ĐẠO"đã hiện hành rồi. Do đó, thông suốt lý sự, dung thấu cổkim, cho là "VÔ NAN" đã thành lời thừa. Nhưng thánh phàm nhiễmtịnh, trước mắt toàn chân, nếu sanh ra tình thức phân biệtthì trái hẳn với chí-thể (tự tánh), nên mới nói "DUY HIỀMGIẢN TRẠCH" vậy. Lời văn sau này dù khác, thảy đều khôngngoài ý này.

TỊCH NGHĨA GIẢI (tịchlà phủ nhận), RẰNG

Hình như giống nhau, giốngmà chẳng đồng. Lại, hai chữ CHÍ ĐẠO, dẫu cho ông dùnghết ý thức để giải thích, đối với tông chỉ của VÔNAN, cần phải tương ưng mới được. Nếu chẳng phải tựtâm khai ngộ, âm thầm khế hợp bất khả tư nghì, dứt hẳntri kiến, siêu việt ngữ ngôn danh tướng, muốn trông thấytông chỉ của VÔ NAN, chẳng những xa cách như trời với đất,ở nơi căn và cảnh tương đối, đủ thứ sai biệt, nếukhông thể ngay đó giải thoát, mà muốn đem cái đạo lý vônan không giản trạch đó tồn chứa trong lòng, thì đâu chỉnhận giặc làm con mà thôi! Nên ở đây chẳng thể quên lời.

KỆ KẾT THÚC,RẰNG

Chí đạo không nên chê lựachọn,

Chớ nói lựa chọn đọa phàmtình.

Cần phải đâm mù mắt mẹđẻ.

Ban ngày đốt đèn đọc "MINH"này.

2. ĐẢN MẠC TẮNG ÁI,ĐỒNG NHIÊN MINH BẠCH

DỊCH

Chỉ đừng yêu ghét thì rõràng minh bạch.

LỜI KHAI THỊ

Thẳng chẳng phải tùng, cochẳng phải gai, thông chẳng phải hư không, nghẽn chẳng phảivách tường, là đầu búa không lỗ ném ngay mặt. Trái lại,thẳng vẫn là tùng, co vẫn là gai, thông vẫn là hư không,nghẽn vẫn là vách tường, vậy trời xanh nước rộng dínhliền như cũ. Đêm qua người Ba Tư bắt được tên chánh tặcTây Thiên trong Nam Hải, đợi trời sáng đốt đèn xem, thìra Bác Hai Vương ở làng Đông.

LỜI NGHĨA GIẢI

Tổ sư nói "ĐẢN MẠC TẮNGÁI, ĐỒNG NHIÊN MINH BẠCH", người nghĩa giải cho rằng : Chánsanh tử, ham niết bàn là yêu ghét; bỏ phiền não, lấy bồđề là yêu ghét, hễ ở nơi pháp thánh phàm chẳng còn mảymay cảm tình yêu ghét, thì tâm này tự nhiên minh bạch rồi.

TỊCH NGHĨA GIẢI,RẰNG

Thôi thôi! Dẫu cho ông tấtcả đều chẳng yêu ghét, không màng luôn đến cái TA, nhưngđâu biết cái chẳng yêu ghét đó đã thành yêu ghét rồi!Nếu chẳng phải đích thân thấy chỗ đứng của Tổ Sư (kiếntánh), cứ chú giải như thế, có đúng ý Tổ Sư từ Tây Trúcđến chăng?

KỆ KẾT THÚC,RẰNG

Trời che, đất chở khắp mọinơi,

Mặt trời chiếu soi chẳngthiếu sót.

Lại muốn ngồi trong nghĩaminh bạch,

Chẳng biết hai chân dính nướcsình.

3. HÀO LY HỮU SAI, THIÊNĐỊA HUYỀN CÁCH

DỊCH

Xê xích mảy may, cách xa trờiđất.

LỜI KHAI THỊ

Có căn cứ nhất định, lạikhông tiêu chuẩn phép tắc, đem hư không lấp hư không, dùngmục đích phá mục đích, mua đá được ngọc, dẫu cho LụcTổ nói "Chẳng hội"; Đạt Ma nói "Chẳng biết", đều làdời hoa rủ bướm, chỉ hai đường dây dưa này, đã dẫnkhởi gai gốc đầy trời. Bỏ gai gốc, Hải thần chẳng quíDạ-Minh-Châu, nguyên nắm ném thẳng vào mặt họ.

LỜI NGHĨA GIẢI

Tổ Sư nói "HÀO LY HỮU SAI,THIÊN ĐỊA HUYỀN CÁCH", người nghĩa giải cho rằng : Phápmôn rộng lớn nầy, dù nói ngộ mê chẳng khác, nếu ngươicòn mảy may tình cảm yêu ghét phân biệt chưa dứt sạch,thì như trời với đất cách nhau quá xa rồi.

TỊCH NGHĨA GIẢI,RẰNG

Giải nghĩa như thế giốngthì giống, phải thì chưa phải. Tại sao? Vì còn thiếu mộttiếng "Ổ" (ngộ), dẫu cho ông mỗi mỗi không sai, lý hợpvới đạo, vẫn còn không khỏi cách xa như trời với đất.

KỆ KẾT THÚC,RẰNG

Nói chi có sai và không sai,

Đều thành dụi mắt thấyhoa đốm.

Muốn lìa mảy may việc càngnhiều,

Trời đất xưa nay vẫn cáchxa.

4. DỤC ĐẮC HIỆN TIỀN,MẠC TỔN THUẬN NGHỊCH

DỊCH

Muốn được tự tánh hiệntiền, chớ còn tập khí thuận nghịch.

LỜI KHAI THỊ

Hai không là đôi, một khônglà chiếc, buông chẳng lìa, nắm chẳng hợp. Dương Kỳ 10năm đúc thành vòng kim cương, Đạt Ma 9 năm nhìn vỡ váchtường sắt. Lúc cổ Phật chưa sanh, bóng trăng hiện khắpngàn sông; khi vũ trụ đã thành, gió mát sung mãn mười phương.

Nói thuận chẳng thuận, nóinghịch đâu nghịch,

Quải-giác-linh-dương ăn gậysắt, trái cân bóp ra nước vàng ròng (Con linh dương lúc ngủtreo sừng trên cây, dưới đất không có dấu tích, thở khôngra tiếng, thợ săn khó tìm, dụ cho tự tánh không hình tướngsố lượng. Trái cân bóp ra nước là việc vô lý, tự tánhăn gậy sắt cũng là việc vô lý; hai không là đôi, một khônglà chiếc..., đều là việc vô lý, pháp nào có thể lý giảithì chẳng phải tự tánh).

LỜI NGHĨA GIẢI

Tổ Sư nói "DỤC ĐẮC HIỆNTIỀN, MẠC TỔN THUẬN NGHỊCH". Người nghĩa giải cho rằng: Tổ Sư nói đến đây thành có mâu thuẫn, tại sao? Việcnày vốn đã hiện tiền, còn muốn đắc cái gì nữa? Kinhnói "Chánh tánh vô bất thông, thuận nghịch giai phương tiện" (tự tánh khắp hư không chẳng có tương đối, nói thuậnnói nghịch đều là phương tiện). Ở đây nếu bảo "MẠCTỔN" thì lại thành đoạn diệt rồi, thật ra ý Tổ Sư chẳngphải vậy, chỉ dùng phương tiện khai thị cho hàng sơ học,cũng như người no (đã ngộ) thì không thèm đồ ăn ngon vậy.

TỊCH NGHĨA GIẢI,RẰNG

Im đi, im đi! Tổ Sư ở dướigót chân ngươi, dẫu cho đạp một cái tan nát, vẫn còn phảitham 30 năm nữa.

KỆ KẾT THÚC,RẰNG

Muốn được hiện tiền đuổitheo vọng,

Chẳng còn thuận nghịch tráivơi chơn.

Sung sướng, đau khổ quên phânbiệt,

Cũng là con mắt dính bụi trần.

5. VI THUẬN TƯƠNG TRANH,THỊ VI TÂM BỆNH

DỊCH

Thuận nghịch tranh nhau, ấylà tâm bệnh.

LỜI KHAI THỊ

Bệnh chẳng phải tâm, tâmchẳng phải bệnh, chớ đem cái cây hàng rào hữu lậu, cholà cán gáo múc nước sông. Tâm chẳng lìa thân, cũng chẳngphải tức là thân, cho là khác nhau thì bệnh càng nặng. Giảithích công án " Nhựt diện Phật" của Mã Tổ thì bệnh nặngcàng nặng thêm. Chỗ tình chấp chưa dứt sạch thì dùng camlồ cũng có thể giết người; khi cơ phong khế hợp thì dùngthuốc độc Tỳ Sương cũng cứu được mạng.

Từ khi phương thuốc đua nhautruyền,

Đầu búa không lỗ sanh nhiềubệnh.

LỜI NGHĨA GIẢI

Tổ Sư nói : "VI THUẬN TƯƠNGTRANH, THỊ VI TÂM BỆNH", người nghĩa giải cho rằng : sanhtử vô thường là tâm bệnh, kiến văn giác tri là tâm bệnh,tham thiền học đạo là tâm bệnh, thành Phật làm Tổ làtâm bệnh; cần phải quên cả thuận nghịch, bặt cả thánhphàm, muôn niệm đều bỏ, một lối không tịch, chẳng nhờthuốc thần diệu quí báu, thì cái gọi là "tâm bệnh" đó,tự nhiên không có chỗ đặt để rồi.

TỊCH NGHĨA GIẢI,RẰNG

Than ôi! Phật pháp suy đồi,Tổ đình hoang vu, người bị mắc tâm bệnh cùng khắp thếgian, đều là kẻ tri giải nhập tâm, chấp thuốc thành bệnh,đó không phải là việc lạ, dẫu cho Kỳ Bà (thần y đờixưa) tái thế cũng không cứu được bọn này.

KỆ KẾT THÚC,RẰNG

Thuận nghịch tranh nhau tâmsanh bệnh,

Thuận nghịch đều quên bệnhsanh tâm.

Xưa nay tâm bệnh chết liêntiếp,

Lại khoe phương thuốc hay nhưThần.

6. BẤT THỨC HUYỀN CHÆ,ĐỔ LAO NIỆM TỊNH

DỊCH

Chẳng biết huyền chỉ, uổngcông niệm tịnh.

LỜI KHAI THỊ

Cả đại địa là bánh xe sắtlửa hồng, cả đại địa là đại viên cảnh trí, con chồncon trâu nay vốn chẳng mê. Di Lặc, Thích Ca xưa cũng đâu chứng.Mây trắng lững lờ chẳng nắm chẳng buông, mặt trăng qualại đâu động đâu tịnh; gom trần sa trong vòng pháp giới,nhốt pháp giới trong hang Thái hư. Lúc một người phát chơnquy nguyên (kiến tánh) thì mười phương hư không thảy đềutiêu mất là thế nào?

Con tò vò nuốt mất núi TuDi,

Con khỉ giật mình xuất đạiđịnh.

LỜI NGHĨA GIẢI

Tổ Sư nói "BẤT THỨC HUYỀNCHÆ, ĐỔ LAO NIỆM TỊNH". Người nghĩa giải cho rằng : HUYỀNCHÆ tức chí đạo, thể đồng tên khác, nếu chẳng biếtđược, dẫu cho niệm tịnh trải qua hằng sa kiếp tu chứngđủ loại, cũng là ngoài tâm cầu pháp, chỉ tự thêm lao nhọc,Tổ Sư cũng không chấp nhận.

TỊCH NGHĨA GIẢI,RẰNG

Huyền Chỉ như kiếm bén KimCang, kẻ chẳng biết cố nhiên là tán thân mất mạng, biếtđược cũng không khỏi chạm nhằm bị thương. Vậy có phươngtiện nào tránh khỏi được hai lỗi này?

KỆ KẾT THÚC,RẰNG

Huyền chỉ có ai tự biếtđược?

Thích Ca, Di Lặc còn đang mơ.

Đáng thương cho kẻ chìm khôngtịch,

Cô đơn ở núi lạnh nhiềunăm.

7. VIÊN ĐỔNG THÁI HƯ,VÔ KHIẾM VÔ DƯ

DỊCH

Tròn đồng thái hư, không thiếukhông dư.

LỜI KHAI THỊ

Vốn chẳng dư thiếu, lạicó tính toán. Trang Chu gọi "vạn vật là con ngựa", Long Môncho "mười phương là con lừa". Giống như chung một đường,lại là chẳng cùng lối. Có nước mới được bóng trănghiện, vô tâm khó đắc Dạ-Minh-Châu.

LỜI NGHĨA GIẢI

Tổ Sư nói "VIÊN ĐỔNG THÁIHƯ, VÔ KHIẾM VÔ DƯ". Tòng lâm bàn nhau rằng : Tâm này nơiThánh chẳng thêm, nơi phàm chẳng bớt, tròn như hư không,mỗi mỗi đầy đủ.

TỊCH NGHĨA GIẢI,RẰNG

Nói như thế, khác chi ngườiđi tham học các nơi, ngồi chưa ấm chiếu, đem những lờinầy chứa đầy bụng, chỉ có thể dùng để đàm luận màthôi, hễ gặp một việc nào có dính chút lợi ích của mình,thì cái niệm so sánh đắc thất nổi dậy ùn ùn, muốn khiếncho "VIÊN ĐỔNG THÁI HƯ" đâu có thể được! Đối với việcnày cần phải diệu ngộ, ngộ rồi đâu còn cảnh thứ haiđể làm đối đãi ư!

KỆ KẾT THÚC,RẰNG

Tò vò làm ổ trên mi muỗi,

Muốn cùng đại bàng nối cánhbay.

Nếu cho hư không chẳng thiếukém,

Mở mắt bị nhốt trong chiêmbao.

8. LƯƠNG DO THỦ XẢ, SỞDĨ BẤT NHƯ

DỊCH

Bởi do thủ xả, cho nên bấtnhư (như là đúng như tự tánh).

LỜI KHAI THỊ

Tiến Phước nói "Mạc" (đừng),Triệu Châu nói "Vô" (không), Tuyết Phong phóng ra con ba ba NamSơn, Vân Môn đánh chết cá Lý Ngư Đông Hải. Hưng Hóa đidự trai tăng thôn làng, vào trong cổ miếu tránh gió bão; ĐơnHà thiêu Phật gỗ, làm cho viện chủ rụng lông mày... Nhữngviệc kể trên, đã nghi chết biết bao đại trượng phu.

LỜI NGHĨA GIẢI

Tổ Sư nói : "LƯƠNG DO THỦXẢ, SỞ DĨ BẤT NHƯ". Người nghĩa giải cho rằng : Tâm nàyđã tròn như thái hư, không thiếu tướng nào, tất cả đều"NHƯ". Nếu ngươi ở trong pháp nhiễm tịnh vừa sanh tâm thủxả, thì "BẤT NHƯ" rồi.

TỊCH NGHĨA GIẢI,RẰNG

Nếu là bậc tu sĩ tham họcchơn chánh, thấy người nói những lời này, liền phun nướcmiếng vào mặt họ mà chẳng phải tánh nóng, vì tượng rồngchẳng thể làm mưa được.

KỆ KẾT THÚC,RẰNG

Hai việc thủ xả đã bấtnhư,

Con trâu ai dám gọi con lừa.

Bản thể kim cang khắp phápgiới,

Cũng là dưới hàm trồng lạirâu.

9. MẠC TRỤCHỮU DUYÊN, VẬT TRỤ KHÔNG NHẪN

DỊCH

Đừng theo nơi có, chớ trụnơi không.

LỜI KHAI THỊ

Vạn vật lăng xăng, con ngườingu độn, lìa tướng lìa danh, có ai không hiểu. Vì sao ĐạtMa phân da phân tủy, Lâm Tế lập chủ lập tân (khách), làmcho con cháu lăn lộn tìm. (Sơ Tổ Đạt Ma khám xét môn đồ,có kẻ được da, có kẻ được thịt, có kẻ được xương,cuối cùng Huệ Khả được tủy, kế làm Nhị tổ).

LỜI NGHĨA GIẢI

Tổ Sư nói "MẠC TRỤC HỮUDUYÊN, VẬT TRỤ KHÔNG NHẪN", Người nghĩa giải cho rằng :Cả 2 đều hư huyễn, khởi tâm chấp trước thì thủ xảtranh nhau, một niệm chẳng sanh, thường ở trung đạo, tứclà đạo nhân giải thoát.

TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG

Sai lầm! Đợi ngươi biếtlà giải thoát, đã lọt vào ngoan không rồi. Nếu là bậcngộ tâm chân thật thì hữu duyên và không nhẫn há ở bênngoài giải thoát ư!

KỆ KẾT THÚC, RẰNG

Đừng theo nơi có, còn là dễ,

Chớ trụ nơi không, mới thựckhó.

Hai đầu khó dễ đều chấmdứt,

Tổ đình y xưa chẳng dínhdáng.

10. NHẤT CHỦNGBÌNH HOÀI, DÂN NHIÊN TỰ TẬN

DỊCH

Trọn một bình đẳng, tuyệtnhiên tự sạch.

LỜI KHAI THỊ

Đạo tràng chẳng động, phápvốn vô sanh. Trăng sáng thấu song cửa, gió mát đầy bìnhphong, chỗ có Phật chẳng được trụ, dùng sắt gói tim đèn.Chỗ không Phật chạy mau qua, bông đẹp trải gấm lụa. Ngoàiba ngàn dặm tìm bông hái, mười phương hư không đều tiêumất. Dễ thương lượng, khó định chuẩn, trâu đất đáybiển ăn roi sắt, bên đầu trăm cỏ gió lạnh lùng.

LỜI NGHĨA GIẢI

Tổ Sư nói "NHẤT CHỦNG BÌNHHOÀI, DÂN NHIÊN TỰ TẬN", Người nghĩa giải cho rằng : Tìnhchấp thủ xả đã sạch, tri kiến thánh phàm không nơi nươngtựa, tự nhiên tất cả chỗ đều bình thường, tất cảchỗ tịch diệt.

TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG

Ban ngày không ngủ, đừng cónói mớ. Như nay mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, gọi cái gìbình thường hay không bình thường?

KỆ KẾT THÚC, RẰNG

Tuyệt nhiên sạch hết chẳngngằn mé,

Bên đầu trăm cỏ mở chánhnhãn.

Sanh tử Niết bàn đều bópnát,

Chẳng biết bình thường đặtnơi nào.

11. CHÆ ĐỘNGQUY CHÆ, CHÆ CÁNH DI ĐỘNG

DỊCH

Ngăn động trở về tịnh,tịnh ấy càng thêm động.

LỜI KHAI THỊ

Nói quanh lao nhọc danh tướng,nói thẳng chẳng có dài dòng. Nói quanh tạm gác một bên,thế nào là nói thẳng? Trương Tam, ăn gậy sắt, Lý Tứ chịuđớn đau; người sống vào quan tài, người chết đi đưađám. Quan Âm mất hết thần thông, lại bị con nít chọc ghẹo.Nói thẳng tạm gác một bên, nói quanh lại là thế nào?

Hoa giác ngộ phải trồng nơitự tánh,

Hạt giống Phật nên gieo trêntâm địa.

LỜI NGHĨA GIẢI

Tổ Sư nói "CHÆ ĐỘNG QUY CHÆ,CHÆ CÁNH DI ĐỘNG". Người nghĩa giải cho rằng : Chân tâmtrạm nhiên luôn luôn bất động, xưa nay lưu chuyển đềudo vọng kiến, vậy động đã là vọng, tịnh cũng là vọng,dùng vọng để ngăn vọng, giống như ôm củi chữa lửa, chỉthêm cháy mạnh. Lấy lời Pháp Sư Tăng Triệu dẫn chứng rằng: "Muốn tìm chỗ bất động, đâu phải buông động để cầutịnh, ắt phải cầu tịnh ở nơi động. Vì cầu tịnh ởnơi động, dù động mà thường tịnh; chẳng buông độngđể cầu tịnh, dù tịnh mà chẳng lìa động". Thế thì, độngchẳng tướng động, tịnh chẳng tướng tịnh, như trong Kinhnói "Hai tướng động tịnh rõ ràng không sanh", bởi vì rõbiết động tịnh đều là cảnh vọng, các vọng đã tiêuthì hai tướng đâu còn!

TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG

Thôi thôi! Động là núi bạc,tịnh là vách sắt. Nếu chưa từng đập nát, mà muốn haitướng kia không sanh thì còn cách xa quá.

KỆ KẾT THÚC, RẰNG

Ngọn lửa đâu cho ruồi muỗiđậu,

Lưỡi kiếm chẳng cho thântrần đụng.

Nhà kín Đạt Ma không cửanẻo,

Nắm tay lôi kéo chẳng ai vào.

12. DUY TRỆ LƯỠNGBIÊN, NINH TRI NHẤT CHỦNG

DỊCH

Hễ kẹt hai bên, đâu biếtvốn một.

LỜI KHAI THỊ

Nhìn phải nhìn trái, Đôngnổi Tây lặn, ló ra đầu búa không lỗ, đập lũng đáy thùngsơn đen. Chân nhân Vô Địa Vị, bạt tai Núi Tu Di một cái,khiến cho Bồ Tát Hư Không Tạng đứng giữa ngã tư đườngchấp tay nói rằng : "Cúi xin trân trọng". Tại sao có nhữngviệc trên như thế?

LỜI NGHĨA GIẢI

Tổ Sư nói "DUY TRỆ LƯỠNGBIÊN, NINH TRI NHẤT CHỦNG", Người nghĩa giải cho rằng : LƯỠNGBIÊN là 2 tướng động tịnh, NHẤT CHỦNG là toàn thể khôngkhác. Đây là lời giải thích 2 câu trên, phải biết độngtịnh nhị biên, vọng thì cùng vọng, chân thì cùng chân, đâucó hai thứ.

TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG

Im đi, im đi! Đừng đem kiếngiải vô dụng đã học được, để chôn vùi chân tâm củaTổ Sư.

KỆ KẾT THÚC, RẰNG

Thị nhất chủng hay phi nhấtchủng,

Thị phi hết chấp có ai biết.

Chớ đem đá rêu xanh trong tuyết,

Cho là cò trắng đứng dướisông.

13. NHẤT CHỦNGBẤT THÔNG, LƯỠNG XỨ THẤT CÔNG

DỊCH

Vốn một chẳng thông, thìđặt ra hai chỗ là uổng công.

LỜI KHAI THỊ

Nhận nai là ngựa, gọi lu làchuông, xưa nay đem sai chiều theo sai, chẳng khác đem hư khônglấp hư không, ngồi rách năm, ba cái bồ đoàn, vỗ tay cườito; đi gãy bảy, tám cây tích trượng, mặt mày hớn hở, quétsạch bệnh chấp Phật Tổ, diệt mất Thiếu Lâm Tông (ThiềnTông), lò rèn lâu năm lửa vẫn hồng.

LỜI NGHĨA GIẢI

Tổ Sư nói "NHẤT CHỦNG BẤTTHÔNG, LƯỠNG XỨ THẤT CÔNG", một số thiền giả bày đặtrằng : Hai câu này là lời kết trước dẫn sau, nói KẾT TRƯỚClà hiển bày chơn lý vốn một; Nói DẪN SAU là trách cái vọngcủa có và không vậy.

TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG

Nếu là nạp tăng chơn thật,dù nói một nói hai, câu nào cũng quy về tự tông (bản thể),lời nào cũng là ứng dụng. Nếu chẳng như thế, thì nóimột đã lọt vào hang ổ rồi, huống là hai ư!

KỆ KẾT THÚC, RẰNG

Nói một xưa nay không chỗđể,

Nói hai đâu có chỗ lập công?

Chỉ vì Bà mẹ dặn quá kỹ,

Liên lụy vợ tôi chấp thấynghe.

14. KHIỂN HỮUMỘT HỮU, TÙNG KHÔNG BỘI KHÔNG

DỊCH

Trừ bỏ Có thì kẹt nơi Có,đuổi theo KHÔNG lại trái với KHÔNG.

LỜI KHAI THỊ

Đầu chánh đuôi chánh, tâmkhông mắt không, gặp nhau trong đường hẹp, nói bậy cũngtrúng. Cây bách của Triệu Châu, cắt đứt một dòng suốithế gian. Cái bánh sắt có nhân của Đông Sơn, bóng nướcbầu trời hiện cây tùng. Voi lớn không đi đường con thỏ,sư tử đâu chịu giẫm dấu chồn.

LỜI NGHĨA GIẢI

Tổ Sư nói "KHIỂN HỮU MỘTHỮU, TÙNG KHÔNG BỘI KHÔNG". Những người đuổi theo lờinói giải rằng CÓ là vọng có, vì trừ nó mà bị kẹt;

KHÔNG vốn tự không, do muốnđuổi theo nên trái. CÓ là cái có của nhà không; KHÔNG làcái không của nhà có, KHÔNG nhờ có mới hiển, CÓ nhờ khôngmà bày; vì hiển nên toàn không là có, vì bày nên toàn cólà không, dung nhiếp với nhau mà chẳng sai, tương đối lẫnnhau mà chẳng khác. Do đó được biết, trừ nó hay theo nóđều là vọng.

TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG

Sư tử cắn người, đâu chịuđuổi theo cục xương, y văn giải nghĩa, còn không bằng conchó đuổi theo cục xương nữa, mà còn muốn nó rống lênchụp người ném cục xương ấy, thì đâu có thể được!

KỆ KẾT THÚC, RẰNG

Chỉ vì lá bùa dán quá cao,

Giữ cửa vẫn bị quỷ thầnvào.

Đâu bằng ở dưới thềm nhàlá,

Suối, mây, trăng, núi làm bạnnhau.

15. ĐA NGÔN ĐALỰ, CHUYỂN BẤT TƯƠNG ƯNG

DỊCH

Nói nhiều lo nhiều, càng chẳngtương ưng.

LỜI KHAI THỊ

Như nước vào nước, như gươngsoi gương, tẩy được pháp trần lại kết thành kiến bệnh,làm cho tam thế chư Phật không nhà để về, lịch đại tổsư chẳng có đạo để chứng. Vì thương xót quan tuần mùmắt phải xem số mạng cho KHÔNG VƯƠNG, đêm khuya lật bànquẻ ra xem, hư minh lạnh lẽo tự soi nhau. Cho nên nói "ĐA NGÔNĐA LỰ, CHUYỂN BẤT TƯƠNG ƯNG".

LỜI NGHĨA GIẢI

Người nghĩa giải cho rằng: Nói nhiều cách đạo càng xa. Lại nói "diệu tâm rỗng nhiênchiếu soi, lấy tịch lặng của bậc Thánh làm tông. Còn dẫnchứng Tổ Đạt Ma dạy "Ngoài tuyệt các duyên, trong tâm khôngnghĩ tưởng". Ngoài tuyệt các duyên thì quên lời nói, trongkhông nghĩ tưởng thì hết niệm lo.

TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG

Ngươi dẫn chứng như thếrồi, vậy có tương ưng với tự tánh hay chưa? Nếu chưa,thì nói chi ngôn ngữ này nọ!

KỆ KẾT THÚC, RẰNG

Do lời hiển đạo, đạo quênlời,

Quên đến không lời cũng vọngtruyền.

Thị phi thoát ra ngoài lờinói,

Hư không chẳng miệng biếtnói Thiền.

16. TUYỆT NGÔNTUYỆT LỰ, VÔ XỨ BẤT THÔNG

DỊCH

Bặt nói bặt lo, chỗ nào cũngthông.

LỜI KHAI THỊ

Đạo Ngô múa hốt (cây hốtcủa quan triều đình), Thạch Củng giương cung, Tây Hà sưtử, Trường Sa mãnh hổ, chẳng những bấy giờ tiếng tămlừng lẫy, cho tới ngày nay gia phong vẫn còn lưu truyền, đếndưới cửa Tổ Sư phải khiến dấu chuột diệt mất. Tạisao như thế? Há chẳng thấy nói "Dùng nia đong gạo khác vớicái lít, bàn ủi nấu trà không giống cái ấm". Cho nên nói"TUYỆT NGÔN TUYỆT LỰ, VÔ XỨ BẤT THÔNG".

LỜI NGHĨA GIẢI

Hoặc có người y văn giảinghĩa rằng : Bặt nói thì đường ngôn ngữ dứt, bặt lo thìchỗ tâm hành diệt; đường ngôn ngữ dứt thì tịch mà chiếu,chỗ tâm hành diệt thì chiếu mà tịch. Đến đây, Như LaiThiền và Tổ Sư Thiền có thể xỏ chung một xâu, cũng cócổ nhân bảo họ thôi đi nghỉ đi, khoé miệng lên meo, trênlưỡi mọc cỏ v.v... đều không ngoài lý này.

TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG

Lãnh hội như thế, giống nhưđể nước đá trên ngọn lửa hồng, thật là không biếtmắc cở. Nếu quả như lời nói ấy, thì đâu cần Tổ Sưtừ Tây Trúc sang!

KỆ KẾT THÚC, RẰNG

Bặt nói bặt lo đồng ngườigỗ,

"Khi nào thành Phật", Vĩnh Giachê.

Chưa ngộ trước lời thônghuyền chỉ,

Đem một mảy lông ngăn thiếtvi.

17. QUY CĂN ĐẮCCHÆ, TÙY CHIẾU THẤT TÔNG

DỊCH

Trở về cội gốc thì đượcý chỉ, đuổi theo chiếu soi lại mất bản tông.

LỜI KHAI THỊ

Như thế, như thế, cho Tâylàm Đông; chẳng như thế, chẳng như thế, nhận có là không.Chẳng như thế ở nơi như thế, giống như dùng lưới bắtgió, như thế, ở nơi chẳng như thế, như dùng giấy ướtđể nhốt cọp. Tại sao? Há chẳng nghe nói "QUY CĂN ĐẮC CHÆ,TÙY CHIẾU THẤT TÔNG" ư!

LỜI NGHĨA GIẢI

Một số người khéo suy lườngrằng : "Bặt nói bặt lo" là trở về cội, "nơi nào cũng thông"là đắc tông chỉ. Nếu ngươi lãnh hội theo nghĩa "về cộiđắc chỉ" đó, thì lại đuổi theo chiếu soi làm lạc mấttông chỉ rồi. Nhưng CỘI vốn không chỗ về, CHÆ cũng chẳngthể đắc, chẳng rõ nghĩa này, tự sanh vọng chấp, nói làTUỲ CHIẾU, nếu còn dấu tích chữ CHIẾU, thì tâm tông củachư Phật chư Tổ đã lạc mất quá lâu rồi.

TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG

Quả có lời nói này ư? Nếuthật như thế, thì cũng như kêu những Phật Tổ từ xưa đênđây ăn gậy sắt của Diêm La Vương. Tại sao? Vì họ QUY CĂNĐẮC CHÆ vậy!

KỆ KẾT THÚC, RẰNG

TÙY CHIẾU, QUY CĂN đồng mộtviệc

Chẳng cần đặc biệt hiểngia phong.

Tâm trộm chưa chết trướccơ xảo,

"ĐẮC CHÆ" đâu khác sự "THẤTTÔNG".

18. TU DU PHẢNCHIẾU, THẮNG KHƯỚC TIỀN KHÔNG

DỊCH

Phản chiếu chốc lát, hơncả KHÔNG kia.

LỜI KHAI THỊ

Thấy đến, hành đến, Tôngthông thuyết thông, hiển lộ con mắt trời người, mổ ratấm lòng Phật Tổ. Ngược với vật, đuổi theo vật, giốngnhư khác chẳng phải khác, giết người cứu người, nói đồngchẳng đồng, đều cho đè ngang xuống một lượt, nửa đêmcửa biển mặt trời hồng.

LỜI NGHĨA GIẢI

Tổ Sư nói : "TU DU PHẢN CHIẾU,THẮNG KHƯỚC TIỀN KHÔNG", hạng người gượng nói đạo lýrằng : Đem sáng, tối, sắc, không, dẫn nghĩa quy về tự kỷgọi là PHẢN CHIẾU. Phải biết không chẳng tự không bởitâm nên không; có chẳng tự có, bởi tâm nên có, chúng sanhxa trái tự tâm, vọng thấy Không và Có, mà muốn theo nó haybỏ nó, đều gọi là điên đảo.

TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG

Lời nói đoán sai. Dưới cửaThiền Tông, tìm tâm trọn chẳng thể được, ai là ngườiđiên đảo?

KỆ KẾT THÚC, RẰNG

Vốn chẳng phải chiếu đâucần chiếu,

Nói chi chốc lát với lâu dài.

Hễ được kiến tánh siêudanh tướng,

Hai việc lâu mau nghĩa đềusai.

19. TIỀN KHÔNGCHUYỂN BIẾN, GIAI DO VỌNG KIẾN

DỊCH

Không kia chuyển biến, đềudo vọng kiến.

LỜI KHAI THỊ

Lư hương chùa cổ, lụa trắngmột sợi, ngay đó siêu việt sanh tử, đều là rơi vào phươngtiện. Xưa nay chẳng tin tâm tự mê, lại nói Phật pháp khônglinh nghiệm. Dù có linh nghiệm, ngay đó liền thành Phật, thìvào địa ngục mau như tên bắn.

LỜI NGHĨA GIẢI

Tổ Sư nói: "TIỀN KHÔNG CHUYỂNBIẾN, GIAI DO VỌNG KIẾN", người nghĩa giải cho rằng : Cólà vọng, Không cũng là vọng. Không và Có theo duyên thay đổichẳng nhất định, muốn được lìa vọng, phải bài trừcả hai.

TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG

Thôi thôi! Trừ thì mặc tìnhcho y trừ, nhưng chẳng biết cái vọng sở trừ và cái tâmnăng trừ đều chẳng lìa vọng. Nếu chẳng thể luôn cảcái "trừ" đều trừ sạch, muốn thoát khỏi cảnh duyên vọng,khó mong có ngày. Vậy có phương tiện nào để trừ luôn cái"Trừ"?

KỆ KẾT THÚC, RẰNG

KHÔNG đâu có biến, biến phiKHÔNG,

Trong mắt đừng có chứa núisông.

Ba Tư đáy nước thổi đálửa,

Mặt trời bay lên cửa biểnđông.

20. BẤT DỤNGCẦU CHƠN DUY TU TỨC KIẾN

DỊCH

Chẳng cần cầu chơn, chỉcần dứt kiến (tri kiến)

LỜI KHAI THỊ

Dựng đứng xương sống nhưsắt, cầm ngang cây kiếm dài như trời, trong lúc động tịnhnhàn rộn, tất cả nhồi thành một khối. Đã tinh chuyên,lại dũng mãnh, đối với sự thành Phật làm Tổ, chẳng cáchmột hạt bụi, đụng nhằm Tam Tổ nói nhỏ với Ngài rằng"Khéo léo xem phương tiện, chẳng cần cầu chơn, chỉ cầndứt kiến".

LỜI NGHĨA GIẢI

Người học giáo lý cho rằng: Kiến chấp có 62 thứ, pháp số nêu ra đủ thứ, chẳng rangoài 2 kiến : Đoạn và thường. Cầu chơn rơi vào đoạnkiến, theo vọng rơi vào thường kiến. Kinh Lăng Nghiêm nói"Nói vọng để hiển chơn, Vọng, Chơn là hai vọng, Phi chơnphi chẳng chơn, nói chi kiến sở kiến". Hễ lìa được tấtcả kiến thì toàn thể tức chơn, chẳng cần cầu vậy.

TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG

Phải thì cố nhiên là phải,nhưng Tổ Sư nói "CHÆ CẦN DỨT KIẾN", vậy kiến làm sao dứt?Nếu như có cái lý của dứt kiến, thì cái lý đó cũng trởthành kiến rồi!

KỆ KẾT THÚC, RẰNG

Tác ý cầu chơn, chơn liềnẩn,

Tận tình dứt kiến, kiếncàng sanh.

Ngay cửa dù chẳng trồng gaigốc,

Nhưng đã không ai có lối đi.

21. NHỊ KIẾNBẤT TRỤ, THẬN VẬT TRUY TẦM

DỊCH

Nhị kiến đối đãi chẳngtrụ, chớ nên đuổi theo để tìm.

LỜI KHAI THỊ

Dùng mũi kim gọt sắt, nơimặt Phật cạo vàng, nói KHÔNG thì mảy may chẳng cách, nóiCÓ thì bậc Thánh khó tìm. Ban ngày không thấy đường, nửađêm lại sáng tỏ. Tuyệt đối đãi, lìa cổ kim, người đờiđều biết Hồ Hải rộng, xuất ngoại mới thấy nước bùnsâu.

LỜI NGHĨA GIẢI

Tổ Sư nói : "NHỊ KIẾN BẤTTRỤ, THẬN VẬT TRUY TẦM, người nghĩa giải cho rằng : Đãchẳng trụ vọng, cũng chẳng trụ chơn, luôn cái chẳng trụcũng không trụ, chính ngay khi ấy đủ thứ đại dụng, tấtcả toàn chơn, đâu cần lìa cái này để tìm cái khác!

TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG

Ỷ! Như những lời nói tươngtự này, có ai không chứa một bụng hay nửa bụng, nhưng muốngần bên cạnh Tổ Sư thì chưa được.

KỆ KẾT THÚC, RẰNG

Các pháp bổn lai vô sở trụ,

Nơi vô sở trụ bặt truy tầm.

Đêm qua Tây Đỉnh mặt trờilặn,

Sáng nay y cũ chiếu rừng sâu.

22. TÀI HỮU THỊPHI, PHÂN NHIÊN THẤT TÂM

DỊCH

Vừa có thị phi, thì lăng xănglạc mất bản tâm.

LỜI KHAI THỊ

Căn chẳng lợi độn, đạochẳng cạn sâu, Thiền tông có một câu :

"Phi cổ phi kim", mò không đụngđáy. Tỉnh tọa nơi Đại-viên-cảnh-trí, dù được đụngđáy lại sâu vào rừng rậm tà kiến, Di Lặc, Thích Ca tựbiết chẳng có phần, con chồn, con trâu ráng nín sự tứccười.

Đêm cưỡi ngựa sắt chìmđáy biển,

Mò được mũi kim hồi nămxưa.

LỜI NGHĨA GIẢI

Tổ Sư nói "TÀI HỮU THỊ PHI,PHÂN NHIÊN THẤT TÂM", người ở tòng lâm thường nói : Khắpmười phương thế giới là sa môn tự kỷ, khắp mười phươngthế giới là cổ Phật pháp thân. Cho nên nói : lăng xăng chẳngphải vật khác, tung hoành đâu phải bụi trần, chẳng thịcũng chẳng phi, mỗi mỗi đều từ trong tâm diệu minh chảyra.

TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG

Những lời nói này, tòng lâmgọi là việc thương lượng bình thường, cũng gọi là câunói chuyển thân (vô trụ), ai cũng dùng 2 câu này để dẫnchứng, xưa nay không biết đã làm ô nhiễm bao nhiêu tâm địatrong sạch, nên bậc đạo nhân chơn thật, quở nó là tạpđộc, mắng nó là nước miếng con chồn, có người nào khôngchịu sự ma mị ấy chăng! Cần phải mửa hết cho mau.

KỆ KẾT THÚC, RẰNG

Nói có thị phi, không thịphi,

Nhà lớn cửa mở đợi ai vào.

Gai gốc đầy trời ngang đườngcái,

Đi qua ai chẳng bị vướngy.

23. NHỊ DO NHẤTHỮU, NHẤT DIỆC MẠC THỦ

DỊCH

Hai do một mà có, một cũngđừng nên giữ.

LỜI KHAI THỊ

Mặt trời mọc, mặt trănglặn, trời đất lâu dài, chỉ có Châu Kim Cang (Đức Sơn)không việc làm. Cầm ngang cây gậy đi dọc đường, có aihỏi ý Tổ Sư từ Tây Trúc sang, nếu chẳng đánh vào sốnglưng thì chụp ngay ngực, rồi nói "Ngậm miệng chó lại",làm cho sum la vạn tượng híp mắt cười ha hả. Muốn đếnnơi phải đợi ba mươi năm sau.

LỜI NGHĨA GIẢI

Tổ Sư nói: "NHỊ DO NHẤT HỮU,NHẤT DIỆC MẠC THỦ", người nghĩa giải cho rằng : Vừa theohai, liền mê một, vừa giữ một, liền sanh hai. Nên biết: Hai là chơn vọng, một là tự tâm, cái "HAI" của chơn vọngđã trừ, cái "MỘT" của tự tâm chẳng trụ, gọi là giảithoát trên đường đạo lớn vậy.

TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG

Những lời nói này, ghi nhớtrong lòng cho là tham học, chẳng những chưa đủ tư cách đểăn gậy của Đức Sơn, mà gậy sắt của Diêm La Vương lạikhông thể thiếu phần cho ông.

KỆ KẾT THÚC, RẰNG

Bảo y một pháp cũng đừnggiữ,

Chẳng biết "đừng giữ" chưathật nghèo.

Đâu bằng say rượu nằm trênthảm,

Rải ném vàng ròng cho mọingười.

24. NHẤT TÂMBẤT SANH, VẠN PHÁP VÔ CỬU

DỊCH

Một tâm chẳng sanh khởi, muônpháp chẳng đúng sai.

LỜI KHAI THỊ

Tô Châu có, Thường Châu có,sáu lần sáu = ba mươi sáu, bảy lần bảy = bốn mươi chín.Am chủ dựng lên nắm tay, Bá Trượng mở ra hai bàn (tay), sảnxuất túi cơm (ám chỉ Tổ Sư) một ngàn bảy, hiện ra đầuthần mặt quỷ. Con tôm đâu từng ra khỏi lưới.

LỜI NGHĨA GIẢI

Tổ Sư nói: "NHẤT TÂM BẤTSANH, VẠN PHÁP VÔ CỬU", người nghĩa giải dẫn chứng kinhluận rằng : "Tâm sanh mỗi mỗi pháp sanh, tâm diệt mỗi mỗipháp diệt. Các pháp chẳng tự sanh, các pháp chẳng tự diệt,đều do một tâm biến hiện, một tâm không sanh, các phápthường trụ". Cho nên người xưa có lời nói : "Trâu sắtkhông sợ sư tử rống, giống như người gỗ thấy chim, hoa",chính là nghĩa này vậy.

TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG

Đúng thì đúng rồi! NhưngNgài Vĩnh Gia lại nói : "Ai vô niệm, ai vô sanh? Nếu thậtvô sanh thì vô bất sanh, kêu người gỗ-máy đến hỏi thử,dụng công cầu Phật lúc nào thành? Vậy lời nghĩa giải trêndường như trái ngược; xin hỏi : Bất sanh là phải, hay vôbất sanh là phải? Thử xác định xem!

KỆ KẾT THÚC, RẰNG

Vạn pháp xưa nay chẳng đúngsai,

Một tâm đâu có sanh, bấtsanh.

Lòng từ dặn dò dù tha thiết,

Tiếng sáo chăn trâu khó hợpđàn.

25. VÔ CỬU VÔPHÁP, BẤT SANH BẤT TÂM

DỊCH

Chẳng đúng sai thì chẳng phảipháp, cũng chẳng sanh cái tâm chấp "chẳng phải tâm".

LỜI KHAI THỊ

Núi Thái Hoa không hiểm, Biểnmênh mông không sâu, bài thơ "Nguyệt thực" của Lư Đồngđâu có khó đọc, Khúc "Thái Cổ" của Bá Nha thật có triâm, chỉ có "Ám Hiệu Tử" của Đông Sơn nắm thì không kẽhở, buông thì rất khó tìm, làm phiền bao nhiêu người lanhlợi, chen lấn tranh giành đến ngày nay.

LỜI NGHĨA GIẢI

Tổ Sư nói: "VÔ CỬU VÔ PHÁP,BẤT SANH BẤT TÂM", người nghĩa giải cho rằng : hai câu nàylà ngược lại hai câu trên. Nói "KHÔNG ĐÚNG SAI" thì muônpháp tự tiêu, "KHÔNG SANH" thì một tâm tự tịch, Pháp tiêutâm tịch, bản thể của chí đạo rõ ràng, chẳng đợi đắcmà đắc rồi.

TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG

Xưa kia tăng hỏi Triệu Châu: "Học nhân mới vào tòng lâm, xin thầy chỉ dạy" Châu hỏi"ăn cháo rồi chưa?" Tăng nói : "Ăn rồi". Châu nói : "Rửachén bát đi!" Tăng ấy ngộ liền. Vậy tăng ấy lúc bấy giờngộ chẳng đúng sai ư? Ngộ chẳng phải pháp ư ? Ngộ khôngsanh ư? Ngộ chẳng phải tâm ư? Xin xác định xem!

KỆ KẾT THÚC, RẰNG

Chỉ vì lỗi chấp chẳng đúngsai,

Sanh tâm đều bởi chấp "khôngsanh".

Đêm lạnh vượn khóc trăngđỉnh núi,

Khác đường xưa nay không thểhành.

26. NĂNG TÙY CẢNHDIỆT, CẢNH TRỤC NĂNG TRẦM

DỊCH

Năng theo cảnh diệt, cảnhtheo năng mất.

LỜI KHAI THỊ

Đem một lớp khử bỏ mộtlớp, đường xa mới biết sức ngựa; chẳng đem một lớpkhử bỏ một lớp, lâu ngày mới thấy lòng người. Công án2 lớp; chân đã duỗi thì không rút, ngoài 3000 dặm ai là triâm?

Từ khi mùa đông người đãvề,

Mấy đám mây xuân bọc núixanh.

LỜI NGHĨA GIẢI

Tổ Sư nói : "NĂNG TÙY CẢNHDIỆT, CẢNH TRỤC NĂNG TRẦM", người nghĩa giải dẫn chứnglời Vĩnh Gia rằng : "Cảnh không trí thì chẳng rõ, trí khôngcảnh thì chẳng sanh; trí sanh do rõ cảnh mà sanh, cảnh rõdo trí sanh mà rõ". Nên biết NĂNG là một tâm, CẢNH là cácpháp, năng tức tên khác của trí, cảnh tức biệt hiệu củapháp, cảnh diệt thì tâm năng rõ cũng diệt, tâm không thìcảnh sở hiện cũng mất. Năng và cảnh giúp nhau tồn tại,nhiếp nhau dung thông, vốn không ngăn cách, người không rõnghĩa này nên gọi là mê.

TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG

Theo lời nói như vậy, gọilà liễu ngộ được chăng? Chẳng những không liễu ngộ,lại như người đói khát ăn muối, càng thêm đói khát màthôi.

KỆ KẾT THÚC, RẰNG

Đồng biết ánh sáng do đènhiện,

Cùng nói làn sóng nhờ nướcsanh.

Nước cạn, đèn tắt, sóng,ảnh hết,

Mới đáng ngoài cửa ăn roiTổ.

27. CẢNH DO NĂNGCẢNH, NĂNG DO CẢNH NĂNG

DỊCH

Cảnh do năng thành cảnh, năngdo cảnh thành năng.

LỜI KHAI THỊ

Đại Tạng kinh điển là giấyvụn năm xưa, ngàn bảy công án là dây

dưa mục nát, cũng như lá vànggạt con nít nín khóc, khác chi

đốt ngọn đèn dưới ánhsáng mặt trời! Dẹp qua lớp này rồi lại có

một lớp nữa, có mấy ôngtăng được thoát khỏi những sự lừa gạt nầy

?

LỜI NGHĨA GIẢI

Tổ Sư nói : "CẢNH DO NĂNGCẢNH, NĂNG DO CẢNH NĂNG". Có người y văn giải nghĩa rằng: Cảnh chẳng tự cảnh, vì năng nên cảnh; năng chẳng tựnăng, vì cảnh nên năng, năng nhờ cảnh mà sanh, cảnh nhờnăng mà khởi. Phải biết ngoài tâm chẳng pháp, sanh mà bấtsanh; ngoài pháp chẳng tâm, khởi mà phi khởi. Tổ Sư đếnđây, đem nhất tâm vạn pháp vò thành viên kẹo, chỉ muốny vui vẻ nuốt vào.

TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG

Hỏi ngược lại họ : "Ôngđã từng nuốt được hay chưa? Nếu như chưa, vậy cả thếgiới có ai nuốt được chăng? E rằng sau này viên sắt lửahồng chắc có phần cho ông!

KỆ KẾT THÚC, RẰNG

Vì năng sanh sở, sở sanh năng,

Năng sở đều quên, sanh "BấtSanh".

Ốc Trai hút cạn nước biểncả,

Trên nhánh san hô nửa đêmtrăng.

28. DỤC TRI LƯỠNGĐOẠN, NGUYÊN THỊ NHẤT KHÔNG

DỊCH

Muốn biết "hai đoạn", vốnlà "một-không".

LỜI KHAI THỊ

Không mà chẳng không, cây gậysừng thỏ chống bể núi bạc vách sắt ; chẳng không mà không.Phất trần lông rùa mở ra gió mát trăng thanh. Động Sơn "bacân mè", dính da dính xương; Vân Môn "cục cứt khô", kẹtvỏ kẹt ruột. Trước mặt nạp tăng thả qua không được,dưới cửa Tổ Sư tái phạm khó tha. Thường khiến trong bụngnhư kim chích, quăng xuống trong biển rộng sóng to.

LỜI NGHĨA GIẢI

Tổ Sư nói: "DỤC TRI LƯỠNGĐOẠN, NGUYÊN THỊ NHẤT KHÔNG". Người nghĩa giải cho rằng: Nói "HAI ĐOẠN� là chỉ tâm pháp của đoạn trên. Nói "MỘTKHÔNG" chẳng phải là cái ngoan không của Thái hư, cũng chẳngphải là cái "không" đoạn diệt của Tiểu-thừa, là cái chơnkhông vô tướng của linh giác. KHÔNG này là nguồn gốc củachư Phật, là mẹ của vạn linh. Chẳng tiếng chẳng mùi, rõràng ở trước các vật. Chẳng hữu chẳng vô, hiển bày bênngoài lục trần.

TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG

Đã là KHÔNG thì chẳng nêncó biết, đã có biết thì chẳng nên gọi là không. Nếu chưatừng nắm tay với Tổ Sư, đích thân đến Biển Giác củaChơn Không, thì nói chi ngôn ngữ này nọ!

KỆ KẾT THÚC, RẰNG

Đào được kho tàng trong chiêmbao,

Lại cưỡi loan phụng lên BảoĐài.

Suốt đêm vui mừng không kểxiết,

Sáng ngày tỉnh dậy dạ ngẩnngơ.

29. NHẤT KHÔNGĐỔNG LƯỠNG, TỀ HÀM VẠN TƯỢNG

DỊCH

Nói một cái KHÔNG đã đồngvới hai, một và hai cùng bao hàm vạn tượng.

LỜI KHAI THỊ

Một câu không ích kỷ, muônngười đồng ngưỡng mộ. So bằng vai tổ. Cơ xảo qua bàntay, Đại Điên đánh thủ tọa; gom tuyết để chôn vàng, HưngHóa phạt Duy Na, ra tiếng để ngưng âm thanh. Duy có Thạch-Cảm-Đương,quanh năm suốt tháng, ló đầu ra trước trăm ngàn chúng, xưanay chẳng ai biết tán thưởng.

LỜI NGHĨA GIẢI

Tổ Sư nói : "NHẤT KHÔNG ĐỔNGLƯỠNG, TỀ HÀM VẠN TƯỢNG". Người nghĩa giải cho rằng: Tâm chẳng khác với pháp. Là một KHÔNG đồng hai; pháp chẳngkhác với tâm, là cùng hàm vạn tượng. Sở dĩ người xưanói "Thấy sắc liền thấy tâm, chẳng sắc, tâm chẳng hiện",lại trong kinh nói "Sum la và vạn tượng, do một pháp ấn định",nên Tổ Sư sáng tỏ nơi đây.

TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG

Giảng kinh thì cho ngươi giảng,nhưng muốn thấy ý chỉ Tổ Sư, khác gì đi Trịnh Châu racửa Tào Châu.

KỆ KẾT THÚC, RẰNG

Một chẳng phải chiếc, haichẳng đôi,

Trăng lạnh đêm khuya, bóngin sông.

Ánh sáng nuốt hết cả vũtrụ,

Còn dời bóng mai lên cửa song.

30. BẤT KIẾNTINH THÔ, NINH HỮU THIÊN ĐẢNG

DỊCH

Chẳng thấy tinh tế thô sơ,đâu có thiên lệch một bên.

LỜI KHAI THỊ

Thiền gọi quan ải, giáo gọicương yếu, cứu vớt chúng sanh trong tam giới, thi đậu "TÂMKHÔNG" là tiêu biểu, đụng nhằm thằng không ý chí (tự tánh),móc xiềng xích, mở thắt kết, muôn mắt nhìn thẳng, muốnmở mà chẳng mở; trăm người giơ tay, muốn tát mà chẳngtát, đạo giả vô tâm vốn nên như thế, đâu phải khoe tàitrước mặt mọi người. Cho nên nói : "BẤT KIẾN TINH THÔ,NINH HỮU THIÊN ĐẢNG".

LỜI NGHĨA GIẢI

Người nghĩa giải cho rằng: Tâm và pháp đã không, năng và sở đều bặt, thì chúngsanh, chư Phật đồng bản thể, mê ngộ chẳng khác, nên dẫnchứng lời "tức tâm minh" nói : "Đâu quí đâu tiện, đâunhục đâu vinh, đâu đắc đâu thất, đâu trọng đâu khinh,một đạo hư tịch, vạn vật bình đẳng".

TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG

Nói chứng cũng giống như đượcchứng, nhưng vì sự chứng quá giống nhau đi, lại trở thànhkhông giống nhau rồi. Vậy thế nào là chỗ không giống nhau?Thử xác định xem!

KỆ KẾT THÚC, RẰNG

Hét ra tiếng sét khó bịt tai,

Tò vò vác biển vào mi muỗi.

Heo bùn, chó ghẻ cùng mở mắt,

Tam thế Như Lai trọn chẳnghay.

31. ĐẠI ĐẠOTHỂ KHOAN, VÔ DỊ VÔ NAN

DỊCH

Bản thể đại đạo rộngkhắp hư không, chẳng có khó dễ đối đãi.

LỜI KHAI THỊ

Trộm được y bát vào tay,biết nói "chẳng phải gió động, chẳng phải phướn động",ngoài y-kim-lan ra còn có vật gì khác? Xô ngã cây nêu trướccửa, hai ông này vô sự sanh sự, dối người dối mình. Bổnlai không kẽ hở, xuyên tạc chẳng dính dáng. Có hiểu đượcchăng?

Một lần gặp nhau một lầngià,

Một lần gió thổi một lầnlạnh.

LỜI NGHĨA GIẢI

Tổ Sư nói: "ĐẠI ĐẠO THỂKHOAN, VÔ DỊ VÔ NAN", người nghĩa giải cho rằng : Việc nàyvốn bao trùm nhựt nguyệt hư không, Phật Tổ chẳng biếttên, đại địa chở không nổi, như trời che khắp, như đấtnâng khắp, mỗi mỗi viên mãn, người người đầy đủ, đâucòn khó dễ gì để nói! Đây nói KHÓ DỄ là tại ngườichẳng tại pháp, hễ tin tự tâm là Phật thì dễ, chẳng tintự tâm là Phật thì khó.

TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG

Theo sự thấy nghe của tôilại khác; Hễ tin tự tâm là Phật thì khó, chẳng tin tựtâm là Phật thì dễ, vậy cái lý cao tột ở chỗ nào? Lờinày hãy gác lại, cũng như Bàng Cư Sĩ nói : "Khó, khó, mườigiạ hạt mè bày ra trên cây", Bà Bàng nói : "Dễ, dễ, ý TổSư trên đầu trăm cỏ". Linh Chiếu nói : "Chẳng khó cũng chẳngdễ, đói thì ăn cơm, mệt thì ngủ". Chỗ này nếu phân biệtđược 3 cái lưỡi hay dỡ của họ, thì sự khó dễ có thểngay đó lãnh hội. Nếu không, dẫu cho ngươi hiểu theo lờinói, nói "chẳng dễ chẳng khó", đâu khác gì con lừa mù muốnđuổi kịp theo bầy, vừa bước chân đã không có đườngđể đi rồi.

KỆ KẾT THÚC, RẰNG

Bày mè trên cây, mệt thì ngủ,

Nói "đầu trăm cỏ" của ýTổ.

Ba người đều là không cómắt,

Mò rào mò vách lúc nào thôi.

32. TIỂU KIẾNHỔ NGHI, CHUYỂN CẤP CHUYỂN TRÌ

DỊCH

Sự thấy nhỏ hẹp có chúthồ nghi, muốn gấp lại càng trễ.

LỜI KHAI THỊ

Chuyển tự kỷ vào sơn hà,trâu sắt chìm đầm to; chuyển sơn hà vào tự kỷ, voi giàlún bùn sâu. Tự kỷ sơn hà ném bỏ một lượt, lò rèn cácnơi không thể thiết lập. Có thiết lập, chẳng khác nắmtay dọa trẻ con.

LỜI NGHĨA GIẢI

Tổ Sư nói: "TIỂU KIẾN HỔNGHI, CHUYỂN CẤP CHUYỂN TRÌ", người nghĩa giải cho rằng: Tất cả chúng sanh, từ trước khi kiếp-không (chưa có trờiđất) đã cùng tam thế chư Phật đồng thành chánh giác, vốnchẳng thiếu kém, vì tâm này không rõ, tự rơi vào ngu mêmà chẳng biết. Thế nên, chư Phật chư Tổ dùng trăm ngànphương tiện dẫn dắt khích lệ, khiến họ ngộ nhập. Sởdĩ nói : "Vì một đại sự nhân duyên xuất hiện trên đời",là việc này vậy. Bởi do người chẳng tin tự tâm là Phậtmà muốn tìm cầu ở ngoài tâm, cho nên bị quở là TIỂU KIẾN.Phải biết tâm này vốn sẳn đầy đủ, nói là "mau đượcthành Bồ Đề" đã thành lời thừa, thật ra đâu có sự mauhay trễ ư!

TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG

Thế thì, hiện nay gọi cáigì là Phật? Nếu chỉ bày không ra, bệnh ở chỗ nào?

KỆ KẾT THÚC, RẰNG

Trời há cho ngồi đáy giếngdòm,

Tận cùng sức thấy cũng thànhnghi.

Trở mình nhảy ra ngoài hưkhông,

Nhướng mày mở mắt đã trễrồi.

33. CHẤP CHI THẤTĐỘ, TẤT NHẬP TÀ LỘ

DỊCH

Chấp thật thì lạc mất tôngchỉ, ắt phải rơi vào đường tà.

LỜI KHAI THỊ

Núi vô trùng số (bất nhị),nước vô trùng số, Thiện Tài ở trong tiếng khảy móng taythấy lầu các của Ngài Di Lặc cũng vô trùng số, Chơn nhânVô-Địa-Vị giữa đường gặp thấy việc bất bình, dùngcây gậy gạch một gạch trên không, mười vạn tám ngàn đườnglối nắm gom một lượt, rồi quày đầu lại hét to rằng: "Tình xuyên lịch lịch hán dương thọ, phương thảo thêthê Anh-Võ-Châu".

(Cỏ non biêng biếc đảo Anh-Võ,

Nắng dọi Trường Giang câyHán Dương).

Vì sao như thế? há chẳng thấyTổ Sư nói: "CHẤP CHI THẤT ĐỘ, TẤT NHẬP TÀ LỘ".

LỜI NGHĨA GIẢI

Gần đây có một số ngườiở vào địa vị làm thầy, thấy người nói "Khán thoại đầucủa cổ nhân, làm công phu miên mật, chẳng uổng phí thờigian để tham cứu việc mình", liền dẫn chứng hai câu nàyđể bài xích, đối với "CHẤP CHI THẤT ĐỘ", cho là PhậtPháp đâu có việc này, bởi tất cả sẳn sàng, sao chẳngtự nhận lấy? Lại cố làm bộ điệu của người chết làmchi!

TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG

Nói thế cũng đúng, nhưng khôngxét đến nguồn gốc, chẳng biết ý Tổ Sư là trách cái chấpsau khi ngộ. Há chẳng thấy Phật Nhãn nói : "Có một hạngngười cỡi lừa tìm lừa, lại có hạng người biết đượclà lừa rồi mà cứ cỡi mãi không chịu xuống", chính lànói hạng người này chấp lý đã ngộ mà chưa thể quên.Bên ngoài chấp pháp sở ngộ, bên trong chấp tâm năng ngộ,cổ nhân quở là pháp trần, cũng là gai gốc tri kiến. Chonên Dược Sơn nói vừa có sở trọng, liền thành hang ổ,đều là chấp lý đã ngộ, khiến cho lý ngộ chẳng quên,cho là thật có việc này. Do thấy pháp chẳng viên thông, thànhsở chấp của ngoại đạo. Đang mê mà cầu ngộ thì dễ,đã ngộ muốn quên lý thì khó, nếu không gặp bậc đạosư chơn chánh thẳng tay gông cùm tay chân, đánh đập thốngthiết, thì rốt cuộc không thể đến chỗ tự thôi nghỉ.Đối với thuyết này, ông có vừa lòng chăng?

KỆ KẾT THÚC, RẰNG

Chấp tâm chưa hết hoa thườngrụng,

Thắt kết đã trừ, quả khôngxa.

Cứ theo đường tà đi khi trước,

Quày đầu mới thấy mình trầntruồng.

34. PHÓNG CHI TỰNHIÊN, THỂ VÔ KHỨ TRỤ

DỊCH

Buông thì bản thể tự nhiên,vốn chẳng có đi và ở. (Buông : vô trụ).

LỜI KHAI THỊ

Cơ xảo hướng thượng, câuchuyển ngữ cuối cùng, cửa đã mở sẳn. Lòng từ của chưTổ luôn luôn nhắc nhở hành giả tham thiền ngay đó liềnngộ. Trăng nửa đêm chiếu trên cành hoa mai; ngộ được cứngộ, rạng đông say rượu cỡi chim loan. Không cho là Phậtpháp cao siêu, cũng không cho là phổ biến việc đời, vậyrốt cuộc như thế nào? Chẳng thấy Tổ Sư nói : "PHÓNG CHITỰ NHIÊN, THỂ VÔ KHỨ TRỤ" hay sao!

LỜI NGHĨA GIẢI

Người nghĩa giải cho rằng: Tâm chấp đã trừ, tự nhiên tự do tự tại, chẳng chướngchẳng ngại mà động như mây bay, tịnh như cốc thần, đãvô tâm đối với này nọ, thì đâu có phân biệt đi ở? KinhViên Giác nói : "Bất cứ lúc nào, chẳng khởi vọng niệm,đối với vọng tâm, cũng chẳng ngưng nghỉ, trụ nơi cảnhvọng, không cần hiểu biết, nơi không hiểu biết cũng chẳngcho là chơn thật không hiểu biết". Được như thế thì gầnvới đạo rồi, nghĩa là tình chấp thánh phàm đều sạch,thì bản thể chơn thường hiển lộ, tuyệt hẳn cảnh duyênhư vọng, tức là như như chơn Phật.

TỊCH NGHĨA GIẢI,RẰNG

Chửi nhau cho ngươi tạt nướccũng được, nếu đối với ý Tổ Sư, dẫu cho ngươi đemtất cả Đại Tạng kinh điển đều mửa ra, cũng chỉ thànhnghiệp thức mênh mông mà thôi.

KỆ KẾT THÚC,RẰNG

Kiến văn giác tri đều bỏhết,

Vốn chẳng tự nhiên lại tựnhiên.

Ông đi nước Tần, ta nướcLỗ,

Đỉnh đầu ai chẳng độitrời xanh.

35. NHẬM TÁNH HỢP ĐẠO,TIÊU DAO TUYỆT NÃO

DỊCH

Tự tánh là đạo, vốn chẳngphiền não.

LỜI KHAI THỊ

Bùi Tướng Quốc (Bùi Hưu)ôm Phật đến xin đặt tên, Đường Trang Tông đắc đượcmột báu vật ở Trung Quốc, vua chẳng bị địa vị cao cảdời đổi, Thần chẳng bị việc khắp nước nhiễu loạn.Nạp tăng tham thiền giẫm bước khắp mười phương, hìnhthể chẳng bị vật gì trói buộc, lâu ngày chày tháng ngồitại chỗ vô sự, vì sao lại chẳng thể đúng như tự tánh?Do cái gì làm chướng ngại?

Năm năm khô héo rừng Bát Nhã,

Năm năm tăng trưởng cỏ vôminh.

LỜI NGHĨA GIẢI

Tổ Sư nói : "NHẬM TÁNH HỢPĐẠO, TIÊU DAO TUYỆT NÃO", người nghĩa giải cho rằng : NgườiTâm-Không thi đậu tánh chẳng cần nhậm (mặc kệ) mà tựnhậm, đạo chẳng cần hợp mà tự hợp, tự do như mây ratrên núi, tự tại như trăng đi trên không, trong Đại-Viên-Cảnh(tự tánh) có ai chẳng phải vậy?

TỊCH NGHĨA GIẢI,RẰNG

Phật Ấn Nguyên Hòa Thượngnói : "Cái cảnh đã ngộ khó nói cho người chưa ngộ hiểu,như với người mù bẩm sinh, nói cho biết mặt trời sángtỏ, họ dù nghe mà chẳng thể biết được". Hay người chưatừng buông tay nhào xuống vực thẳm (chưa từng ngộ), màlại dùng lời "NHẬM TÁNH HỢP ĐẠO" để dẫn chứng, thìcũng như người đói nói ăn mà không ăn, lại tự nói "đãno", há chẳng phải là dối người ư?

KỆ KẾT THÚC,RẰNG

Mặc cho pháp tánh tự hợpđạo,

Bệnh của Tâm Vương càng khólành.

Lại muốn cầu cho tuyệt phiềnnão,

Ba trăm roi sắt chưa phải nhiều.

36. HỆ NIỆM QUAI CHƠN, HÔNTRẦM BẤT HẢO

DỊCH

Nổi niệm thì bị niệm buộc,thành trái với chơn không niệm thì hôn trầm chẳng tốt.

LỜI KHAI THỊ

Đại Tạng giáo điển là sợidây xích chân, thân vàng trượng sáu (Thân Phật) là một cọngcỏ. Một tiếng hét điếc tai ba ngày của Bá Trượng, mộtgiỏ trầu trút ra của Ngưỡng Sơn. Những lời nói này làmiểng ngói hay là châu báu? Nếu ông nói "câu PHẢI cũng quét,câu CHẲNG PHẢI cũng quét; chính là ăn táo mà nuốt hột.

LỜI NGHĨA GIẢI

Tổ Sư nói "HỆ NIỆM QUAI CHƠN,HÔN TRẦM BẤT HẢO", người nghĩa giải dẫn chứng trong kinhnói "Tâm chẳng bị đạo trói, cũng chẳng gây nghiệp, ấylà người đắc đạo". Hoặc dẫn chứng lời Đức Sơn nói"Mảy may hệ niệm là nghiệp nhân tam đồ", còn nói : "Hànhgiả tham cứu, vừa có mảy may tình chấp mê ngộ, thánh, phàm,thì bị tri kiến mê ngộ thánh, phàm làm mù", cần phải mộtvật chẳng dính mắc muôn duyên đều tẩy sạch, mới có thểhợp với chỗ thấy của Cổ nhân.

TỊCH NGHĨA GIẢI,RẰNG

Đừng phỉ báng cổ nhân nhé!Cổ nhân nói với ông : "HỆ NIỆM QUAI CHƠN", nhưng chính cái"một vật chẳng dính mắc" đã là QUAI CHƠN, tức là bị niệmtrói rồi.

KỆ KẾT THÚC,RẰNG

Hệ niệm trái chơn, chơn chẳngtrái,

Hôn trầm chẳng tốt, tốtnơi nào?

Thùng sơn cứng chắc khônglủng đáy (Chưa ngộ),

Thai trâu bụng ngựa đợi ôngvào.

37. BẤT HẢO LAO THẦN, HÀ DỤNGSƠ THÂN

DỊCH

Tốt xấu không nên nhọc tinhthần, đâu cần phân biệt sơ hay thân.

LỜI KHAI THỊ

Triệu Châu khám phá rồi, thủyngân không giả, Vân Môn lỡ lời rồi, A ngùy (phẩn người)chẳng chơn. Tham thiền không linh nghiệm, đụng đâu mê đó,sự thấy là cái gai góc trong mắt, việc nghe là cái bệnhcủa lỗ tai. Ủa! có việc như thế ư? Chỉ cần nói vớihọ : Ngẩng mặt ngó ngoài trời, xem ai ló đầu ra?

LỜI NGHĨA GIẢI

Tổ Sư nói : "BẤT HẢO LAOTHẦN, HÀ DỤNG SƠ THÂN, người nghĩa giải cho rằng : Do HỆNIỆM thì trái với Chơn, đã trái với Chơn thì lao nhọc tinhthần, vì nhọc tinh thần ắt phân biệt sơ thân. Phải biết,HỆ NIỆM là cái nhân của sơ thân, SƠ THÂN là cái quả củahệ niệm. Tổ Sư nói hai chữ "KHÔNG CẦN" cũng như việc tựcắn rốn vậy.

TỊCH NGHĨA GIẢI,RẰNG

Lời nói này như theo hình mèomà vẽ con mèo, đại khái vẽ ra cũng giống, nhưng chuột chếtcòn chẳng thể bắt được, huống là chuột sống ư? Nếuchẳng đích thân một dao cắt dứt mạng căn (chơn tham thậtngộ), thì những lời trên chỉ giúp cho việc luận đàm màthôi.

KỆ KẾT THÚC,RẰNG

Tốt xấu chẳng nên nhọc tinhthần,

Dùng hết tinh thần càng chẳngthân.

Đâu bằng kẻ ngốc nơi thôndã,

Ăn no nằm dài hợp thiên chơn.

38. DỤC THỦ NHẤT THỪA, VẬTỐ LỤC TRẦN

DỊCH

Muốn chứng lấy Nhất PhậtThừa, chớ nên chán ghét lục trần.

LỜI KHAI THỊ

Mắt là quang minh pháp thân,tai là âm thanh pháp thân, mũi là trang nghiêm hương pháp thân,lưỡi là thanh tịnh vị pháp thân, thân là phổ giác phápthân, ý là liễu tri pháp thân, đầy đủ sáu nghìn công đức,thành tựu Nhất-thiết-chủng-trí. Nhưng lúc tứ đại phântán, xương thịt tan rã, lục căn đều biến diệt, vậy phápthân đặt ở chỗ nào?

Việc buồn chớ kể với ngườibuồn,

Kể với người buồn, buồnchết đi!

LỜI NGHĨA GIẢI

Tổ Sư nói "DỤC THỦ NHẤTTHỪA, VẬT Ố LỤC TRẦN", người nghĩa giải cho rằng : NHẤTTHỪA là biệt danh của tự tâm, lục trần, lục thức, lụccăn là biệt hiệu của tự tâm, đâu có thể chứng nhấtthừa mà ghét lục trần! Thế thì giống như yêu tay chân màbỏ vai lưng vậy. Phải biết, Ngộ tâm này thì lục trầntức là nhất thừa, mê tâm này thì nhất thừa tức là lụctrần. Bùi Tướng Quốc nói : "Nghịch nó tức phàm, thuậnnó tức thánh". Kinh Lăng Nghiêm nói : "A Nan, ngươi muốn biếtcái câu sinh vô minh, là gốc thắt kết khiến ngươi luân hồitrong sanh tử ấy, chính là lục căn của ngươi chứ chẳngphải vật khác. Ngươi lại muốn biết đạo vô thượng BồĐề khiến ngươi mau chứng quả tự tại giải thoát, tịchlặng thường trụ ấy, cũng chính là lục căn của ngươichứ chẳng phải vật khác".

TỊCH NGHĨA GIẢI,RẰNG

Lý giải cũng giống như rấtđúng, nhưng cần phải biết : Nhất thừa là hư vọng, lụctrần là phỉ báng, ngoài hai lỗi này, còn tránh khỏi đượcvọng và báng hay không?

KỆ KẾT THÚC,RẰNG

Sắc, thanh, hương, vị và xúcpháp,

Lục trần xưa nay hợp nhấtthừa.

Tình chấp lấy bỏ còn chưadứt,

Lại nơi đất bằng nỗi sóngto.

39. LỤC TRẦN BẤT Ố, HOÀNĐỔNG CHÁNH GIÁC

DỊCH

Chẳng cho lục trần là tốthay xấu, thì đồng như chánh giác.

LỜI KHAI THỊ

"Ông Chủ!", Dạ, dạ, dạ!.Có đường chẳng đi, không dây tự trói. Nói "Lục trần làphải thì trái với chơn, nói lục trần là chẳng phải lạithành lỗi lầm lớn". Lầm thì lầm, một cọng cỏ hiện thânvàng ròng, đảo ngược cỡi hạc bay lên trời.

LỜI NGHĨA GIẢI

Tổ Sư nói: "LỤC TRẦN BẤTỐ, HOÀN ĐỔNG CHÁNH GIÁC", người nghĩa giải cho rằng : Chẳngcó lục trần, cũng chẳng có chánh giác, đều chỉ là diệutâm sáng tỏ. Gọi là lục trần cũng được, gọi là chánhgiác cũng được. Ông nếu ở nơi diệu tâm sáng tỏ này cóchỗ không rõ, thì gọi là chánh giác cũng không rõ, đâu cóviệc gì khác? Chỉ cái rõ và không rõ này, khiến Phật Tổnhọc lưỡi mỏi miệng phân ra những điều hơn kém, đềudo chẳng tin tự tâm mà ra.

TỊCH NGHĨA GIẢI,RẰNG

Xưa có một tú tài, thi cửnhiều lần không đậu, bèn đốt bỏ bút mực, làm l bài thơ"Trở về quê", chê bai công danh như đàm dãi. Nhưng đến kỳthi năm tới, vẫn đi vào trường thi như cũ. Người nói lờinày cũng chẳng khác như vậy.

KỆ KẾT THÚC,RẰNG

Chẳng ghét lục trần đồngchánh giác,

Đường vào cửa thiền vẫnxa xôi.

Cần phải ra tay bắt hư không,

Phật cùng chúng sanh chôn mộthầm.

40. TRÍ GIẢ VÔ VI, NGU NHÂNTỰ PHƯỢC

DỊCH

Người trí tự tại vô tác,kẻ ngu dụng tâm tự trói.

LỜI KHAI THỊ

"Dời chỗ gồ để lấp chỗtrũng, cắt cái dài để nối cái ngắn", Trang Tử nói lờinày tự cho là rất đúng, nhưng kiểm điểm lại, chỉ làtự sanh tính toán, so đo phân biệt. Duy có Mộc thượng tọa(tích trượng) chẳng tốt xấu, cũng chẳng đúng sai, toànthân chỉ là đen thùi lùi, suốt năm dựa bên gốc thiền sàng.

LỜI NGHĨA GIẢI

Tổ Sư nói : "TRÍ GIẢ VÔ VI,NGU NHÂN TỰ PHƯỢC", người nghĩa giải cho rằng : Trí chẳngtự trí, do ngộ mà trí : ngu chẳng tự ngu, do mê mà ngu. Ngườitrí ngộ tự tâm, tâm ngộ vốn vô tác, kẻ ngu mê tự tâm,tâm mê còn tự trói. Phải biết, cái vô tác của người ngộ,dù Quỷ thần trời đất cũng chẳng thể khiến cho họ tác;cái tự trói của kẻ mê, dù muôn hiền ngàn thánh cũng chẳngthể mở trói cho họ. Vậy trí và ngu đều do tâm tạo, đâuphải vật bên ngoài mà làm được!

TỊCH NGHĨA GIẢI,RẰNG

Chỉ thấy đầu dùi nhọn,chẳng thấy đầu đục vuông. Tại sao? Phải biết vô táctức tự trói, tự trói tức vô tác. Nếu cho quả thật cóhai lối, thì cách Tổ Sư quá xa rồi.

KỆ KẾT THÚC,RẰNG

Kẻ ngu tự trói cần phảimở,

Người trí vô tác trói chặtthêm.

Chẳng dùng dao kiếm đã cắtdứt,

Vì thương đồng tử mất thiênchơn.

41. PHÁP VÔ DỊ PHÁP, VỌNGTỰ ÁI TRƯỚC

DỊCH

Pháp chẳng là pháp, vọng tựchấp trước cho là pháp.

LỜI KHAI THỊ

Toàn thân là bệnh, toàn thânlà thuốc, suy nghĩ chẳng đến, thoáng qua trước mặt. Thuốctức là bệnh, bệnh tức là thuốc, trong hư không dễ nhàolộn, áo vải Thanh Châu khó mặc. Cũng chẳng bệnh, cũng chẳngthuốc, vạn tượng sum la một cục sắt, con lừa Dương Kỳba cái chân.

LỜI NGHĨA GIẢI

Tổ Sư nói: "PHÁP VÔ DỊ PHÁP,VỌNG TỰ ÁI TRƯỚC", người nghĩa giải cho rằng : Trúc xanhbiêng biếc đều là Chơn-như, Hoa vàng ngào ngạt đều làBát Nhã, tất cả thanh, sắc trong hư không pháp giới, tìmmột tướng đồng bất khả đắc, tìm một tướng dị cũngbất khả đắc, lìa 2 lối đồng dị này cũng bất khả đắc.Than ôi! Người chẳng rõ lý này, chấp Phật thì bị Phậtngại, chấp pháp thì bị pháp ngại, vậy chấp Phật phápcòn bị chướng ngại, huống là chấp những thứ khác ư!

TỊCH NGHĨA GIẢI,RẰNG

Pháp nếu có khác thì chấptrước mới có khác, Pháp đã chẳng khác thì chấp trướccũng chẳng khác, vì sao lại nói VỌNG TỰ CHẤP TRƯỚC ? Chỗnày nhìn Tổ Sư không ra, thì những lời trước đều là hýluận.

KỆ KẾT THÚC,RẰNG

Pháp chẳng có khác, thể vốnđồng,

Thể đồng đâu có pháp hoằngdương?

Đạt Ma chín năm chỉ hướngvách,

Chẳng biết lấy gì truyềngia phong.

42. TƯƠNG TÂM DỤNG TÂM,KHỞI PHI ĐẠI THỐ

DỊCH

Đem tâm dụng tâm, há chẳngphải lầm lớn.

LỜI KHAI THỊ

Tâm, tâm, tâm, khó mò nắm.Ông già Thích Ca, 49 năm nói vuông nói tròn, hoặc tiểu hoặcđại, chú giải chẳng được, sau cùng niêm hoa thị chúng,chính là đem tâm dụng tâm, cũng khó tránh khỏi cái "Há chẳnglầm lớn" này. Đến đây việc đã là bất đắc dĩ, tạmđem cái chánh pháp nhãn tạng, Niết bàn diệu tâm để chelấp lỗi lầm.

LỜI NGHĨA GIẢI

Người nghĩa giải cho rằng: Ông muốn thành Phật là đem tâm dụng tâm, muốn làm Tổlà đem tâm dụng tâm, cho đến muốn thoát sanh tử, trụ NiếtBàn, chứng Bồ Đề, dứt phiền não v.v... đều chẳng ra ngoài"ĐEM TÂM DỤNG TÂM".

TỊCH NGHĨA GIẢI

Tuy vậy, cũng chỉ nói đượcmột nửa. Phải biết, tâm thể rộng lớn, chẳng thể hạnlượng, ngay đó như đống lửa lớn, đụng vào liền đốt,chạm nhằm liền cháy. Dẫu cho ông chẳng muốn thành Phậtlàm Tổ v.v... cũng ra khỏi cái "ĐEM TÂM DỤNG TÂM" chẳng được.

KỆ KẾT THÚC,RẰNG

Tức Phật là tâm, tâm là Phật,

Ngay chỗ thừa nhận đã tráixa.

Ca Diếp mĩm cười trước niêmhoa,

Vô sự khi không bày đặt ra.

43. MÊ SANH TỊCH LOẠN, NGỘVÔ HẢO Ố

DỊCH

Mê sanh tịch lặng và tán loạn,ngộ chẳng tốt, xấu, yêu, ghét.

LỜI KHAI THỊ

Lúc mê là mê cái ngộ, lúcngộ là ngộ cái mê, mê ngộ cả hai đều quên, đập vỡcái vỏ vô minh. Vô minh đã tan, mê ngộ cũng hết, vậy hailối này còn đặt ở chỗ nào? Gỏ cửa dùng ngói, gạch,mặc cho y suy lường.

LỜI NGHĨA GIẢI

Tổ Sư nói: "MÊ SANH TỊCH LOẠN,NGỘ VÔ HẢO Ố", người nghĩa giải cho rằng : Bản thể chơntịch, tất cả chẳng còn. Kinh Lăng Nghiêm nói : "Vô lậu chơntịnh, tại sao trong đó lại có thể dung nạp vật khác? Ngườichưa ngộ lý này, trước mắt chẳng thấy tịch thì thấyloạn, chẳng thấy động thì thấy tịnh, chẳng biết độngcũng là mê, loạn cũng là mê, tịch cũng là mê, cho đến thấymình ngay đó thành Phật cũng là mê. Hễ thấu rõ được cáitâm mê này thì ngay đó giải thoát, mỗi mỗi thiên chơn, mỗimỗi minh diệu. đã chẳng thấy loạn, cũng chẳng biết tịchnhị biên đều lìa, trung đạo chẳng lập, thì đâu còn tìnhchấp tốt xấu để làm chướng ngại ư!

TỊCH NGHĨA GIẢI,RẰNG

Nói lời nầy rất gần rồi,nhưng mê từ đâu đến, ngộ do đâu khởi? Nếu biết đượcchỗ đến chỗ khởi, chẳng cần trừ mê, cả cái ngộ kiacũng không chỗ đặt để, nếu không, cứ đem cái mê cáingộ theo tánh phân biệt, rốt cuộc chỉ tăng thêm bệnh kiếnchấp mà thôi.

KỆ KẾT THÚC,RẰNG

Xưa nay thiên hạ ai từng ngộ?

Không ngộ làm sao nói có mê?

Bỗng nhớ Ôn Châu ngài VĩnhGia,

Cớ gì một đêm ngủ Tào Khê.

44. NHẤT THIẾTNHỊ BIÊN, LƯƠNG DO CHÂM CHƯỚC

DỊCH

Tất cả nhị biên đối đãiđều do đo lường suy toán.

LỜI KHAI THỊ

Mở miệng nói nhằm, cất bướcđạp phải, tất cả đều sẳn sàng, chẳng tin hãy hành cước.Đợi y đi tới đường cùng, chẳng chỗ ở đậu, áo ráchgiày lủng, khi ấy xỏ mũi kéo quày đầu (ngộ), mới tin xưanay uổng công tìm.

LỜI NGHĨA GIẢI

Tổ Sư nói "NHẤT THIẾT NHỊBIÊN, LƯƠNG DO CHÂM CHƯỚC". Có người bày đặt chú giảirằng : Vừa thấy có loạn liền thấy có tịch. Phải biếtloạn chẳng tự loạn, vì tịch nên loạn; tịch chẳng tựtịch, vì loạn nên tịch, do đó các pháp lăng xăng, mới cósự đối đãi nhau sanh khởi. Nói 2 chữ "CHÂM CHƯỚC" nghĩacũng giống như 2 chữ "GIẢN TRẠCH" ở đầu bài MINH, vì tìnhthức "GIẢN TRẠCH" chưa tiêu, thì đối với nhị biên tịchloạn v.v..., kết thành cái niệm "CHÂM CHƯỚC". Nếu chưa trừđược niệm này thì tất cả chẳng được bất nhị vậy.

TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG

Thế thì cái niệm "CHÂM CHƯỚC"có phương tiện nào để trừ? Nếu chẳng biết phương tiệngì, thì lời ông nói ở trên cũng là do CHÂM CHƯỚC sanh khởi.

KỆ KẾT THÚC, RẰNG

Nhị biên vốn chẳng cần châmchước,

Một đạo bình đẳng cũngvọng truyền.

Gặp việc chưa thoát ngoàingôn ngữ,

Kiến đồng Phật Tổ cũngxót thương.

45. MỘNG HUYỄNKHÔNG HOA, HÀ LAO BẢ TRÓC

DỊCH

Việc mộng huyễn như hoa đốmtrên không, đâu cần nắm bắt cho mệt nhọc!

LỜI KHAI THỊ

Mai rùa đen (vô minh), bụngtrống rổng, trái cân sắt (tự tánh), thật cứng chắc. Chỉcó Mộc thượng tọa, chẳng bị người xuyên tạc, sáng cưỡitrâu Thiểm Phủ, chiều cưỡi hạc Dương Châu.

Có khi ban ngày chạy về nhà,

Khi gõ hư không tự vấn đáp.

Khúc hát "Về Quê" tiếng chưadứt,

Mây bay chân trời lặn ngôisao.

LỜI NGHĨA GIẢI

Tổ Sư nói: "MỘNG HUYỄN KHÔNGHOA, HÀ LAO BẢ TRÓC", người nghĩa giải dẫn chứng trong kinhnói : "Tất cả Pháp hữu vi, như mộng huyễn, bọt, bóng, nhưsương lộ, điện chớp, nên tác quán như thế". Còn dẫn chứngNgài Vĩnh Gia nói : "Buông tứ đại, chớ nắm bắt, trong tánhtịch diệt cứ ăn uống, các hạnh vô thường tất cả không,tức là Như Lai Đại Viên Giác", bèn mặc tình phan duyên, tùyý tạo tác cho đến hủy phạm giới cấm, phá hoại luậtnghi, đều lấy 2 lời này để dẫn chứng.

TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG

Nhưng chẳng biết ngay lúc buônglung tình ý, quả thật thấy những cảnh sở duyên như mộnghuyễn không hoa hay không? Nếu thấy là không hoa thì chẳngnên đeo đuổi. Nếu trong lòng còn giữ một mảy may phan duyênđeo đuổi thì chẳng thể cho là mộng huyễn không hoa rồi.Phải biết, thành Phật làm Tổ cũng là mộng huyễn khônghoa. Ngoài ra đâu còn cái gì chẳng phải mộng huyễn! Lạicàng nên biết, ngay cái thuyết "HÀ LAO BẢ TRÓC" đã là rơivào mộng huyễn rồi. Việc này nếu chẳng đích thân chứngngộ, mà chỉ muốn tùy theo ngữ ngôn lý giải, thì chẳngphải ngu là gì?

KỆ KẾT THÚC, RẰNG

Thích Ca nửa đêm thấy ngôisao,

Cùng hiện bóng nghiệp trướcGương Đài.

Làm thành một thứ mộng điênđảo,

Chẳng biết ai là đắc tiệnnghi.

46. ĐẮC THẤTTHỊ PHI, NHẤT THỜI PHÓNG KHƯỚC

DỊCH

Đắc, thất, thị, phi, đồngthời buông bỏ.

LỜI KHAI THỊ

Tuyết Phong ném banh gỗ, PhổHóa rung chuông sắt, dù nói là đại cơ đại dụng, rốt cuộctrở thành tạo tác, đâu bằng Vương Thái Phó ở trong quốcđộ vô sanh, cũng chẳng thiện, cũng chẳng ác, mặc tình ănno nằm dài ngủ, tùy ý tự tại an lạc, có người đến hỏiTổ Sư Thiền, bảo y cứ xem cây phướn vàng.

LỜI NGHĨA GIẢI

Tổ Sư nói "ĐẮC THẤT THỊPHI, NHẤT THỜI PHÓNG KHƯỚC", người nghĩa giải cho rằng: Trong Nhất Pháp giới chẳng đắc cũng chẳng thất, chẳngthị cũng chẳng phi, chỉ vì vọng tình chợt khởi, dị kiếnliền sanh, ở nơi chẳng đắc thất bừng khởi đắc thất,ở nơi chẳng thị phi nổi đủ thứ thị phi. Do đó, Tổ Sưbảo y "đồng thời buông bỏ", đã là tự chạm dao bén làmcho đứt tay, đất bằng dậy sóng rồi. Đã biết xưa nay vốnkhông, thì buông bỏ cái gì? Nếu nói có cái lý "có thể buôngbỏ, thì đắc, thất, thị phi đặt để ở chỗ nào?

TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG

Ủa! nói "có thể buông bỏ"cũng đáng ăn gậy, nói "không thể buông bỏ" cũng đáng ăngậy. Tại sao? Vì ông chưa thoát khỏi được đắc thất thịphi vậy.

KỆ KẾT THÚC, RẰNG

Hai tay xòe ra chẳng một việc,

Thị phi đắc thất thảy đềuquăng.

Muốn đem cái này thoát sanhtử,

Con rắn siết chặt đôi chânông.

47. NHÃN NHƯỢCBẤT THÙY, CHƯ MỘNG TỰ TRỪ

DỊCH

Mắt nếu chẳng ngủ, chiêmbao tự dứt.

LỜI KHAI THỊ

Quanh năm ngồi kiết già, suốtngày miệng như câm, hai mắt ngó trên vách, chẳng biết mongmuốn gì. Tham cứu tự kỷ, nửa nghi nửa tin, xem lời cổnhân, tợ có tợ không. Đến lúc năm cùng tháng tận, trởthành leo cây bắt cá.

Đâu bằng quét sạch cả hưkhông,

Trong lòng ló ra dạ Minh Châu.

LỜI NGHĨA GIẢI

Tổ Sư nói: "NHÃN NHƯỢC BẤTTHÙY, CHƯ MỘNG TỰ TRỪ", người nghĩa giải cho rằng : Haicâu này là dụ trước hợp sau. Như người mở to đôi mắt,rõ ràng tỉnh táo, thì hôn trầm tự trừ; đã chẳng hôn trầmthì đâu có chiêm bao!

TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG

Nếu làm thí dụ thì được.Nếu chẳng làm thí dụ, thì Tổ Sư cũng đáng ăn gậy. Tạisao? Nay mở mắt đâu từng chẳng phải là chiêm bao!

KỆ KẾT THÚC, RẰNG

Kim Cang chánh nhãn chưa từngngủ,

Chẳng biết mộng lớn bao giờthức.

Gởi lời thiền khách cửaTổ Sư,

Chớ cho Hạc hót là Oanh ca.

48. TÂM NHƯỢCBẤT DỊ, VẠN PHÁP NHẤT NHƯ

DỊCH

Nếu tâm chẳng cho là có khác,thì muôn pháp chỉ là một "NHƯ".

LỜI KHAI THỊ

Chỗ hành của đạo nhân nhưlửa tan băng, trước mặt của nạp tăng như băng dập lửa.Ném bỏ hai thứ băng lửa, mặc cho thánh phàm cùng lối. Đạosĩ không tay vẽ bùa quỷ, Xà Lê mù mắt đọc kinh Phật. Lạicòn một chỗ đáng tin cậy : Tò vò nuốt cả Hồ Động Đình.

LỜI NGHĨA GIẢI

Tổ Sư nói: "TÂM NHƯỢC BẤTDỊ, VẠN PHÁP NHẤT NHƯ", người nghĩa giải cho rằng : Vạnpháp vốn như, do tâm mới thành khác. Ví như núi chẳng tựcao, tâm cho là cao, nước chẳng tự sâu, tâm cho là sâu. Tâmnày cho là khác thì muôn ngàn sự vật đều thành khác. Cổvà lưng vốn cùng một thân mà xem nó như 2 nước Sở và Việt,anh em cùng giống nòi mà coi nhau như trời với đất. Vì sựkhác nên tình chí thân còn phải khác, huống là phàm vớithánh, người với vật. Muốn dung hợp thành một, chẳng sanhyêu ghét này nọ, đâu có thể được!

Kinh nói : "Chưa đạt cảnhduy tâm, khởi đủ thứ phân biệt", như bọn mù mò voi, nhưthấy bóng cung trong nước nghi là rắn... Ở nơi chẳng đồngdị bừng khởi đồng dị. Cần phải trị hết bệnh nhặm,chẳng thấy hoa đốm trên không, dung pháp giới về tâm này,như gương soi gương; Chuyển núi sông vào tự kỷ, tợ khônghợp không. Đến đây các duyên tịch lặng, tâm niệm im lìm,nhị kiến chẳng sanh, nhất pháp ấn định, mới có thể gọilà phù hợp ý Tổ, khế hội tâm Phật vậy.

TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG

Lời này tạm gác qua một bên.Nay trước mắt sáng, tối, thông, nghẽn, thành, trụ, hoại,không, cảnh tượng lăng xăng, gọi cái gì là tâm bất dị?Ngay đó chỉ bày không ra. Hoặc có người nói : "Mặc cho cácpháp hiển bày trước mắt, ta chỉ dùng cái lý "Bất dị"để chiếu soi, tức là chẳng khác". Ôi, nếu nói như thế,lại càng thêm nhiều khác biệt nữa!

KỆ KẾT THÚC, RẰNG

Tâm chẳng khác biệt đồngvạn pháp,

Nắm tay chỉ thể dọa trẻcon.

Cứ theo hình vẽ đồ cho giống,

Lừa gạt người đời khi nàothôi.

49. NHẤT NHƯTHỂ HUYỀN, NGỘT NHĨ VONG DUYÊN

DỊCH

Một chữ "NHƯ" thể tánh huyềndiệu, cùng tột bình đẳng, bặt nhân duyên đối đãi.

LỜI KHAI THỊ

Thiền, thiền, thiền, lìa lýgiải, Thích Ca chưa được một nửa, Đạt Ma còn thiếu támngàn. Lâm Tế hét tới mỏi miệng, Đức Sơn đánh tới phồngtay, mỗi mỗi kiểm điểm từ đầu, vẫn cách trời đấtxa xôi. Tiến tới như vạch sóng tìm nước, thối lui như đàođất tìm trời, chẳng tiến chẳng lui cầu tương ưng, cầnphải tham thêm ba mươi năm.

LỜI NGHĨA GIẢI

Tổ Sư nói: "NHẤT NHƯ THỂHUYỀN, NGỘT NHĨ VONG DUYÊN", người nghĩa giải cho rằng :Thể tánh của chữ "NHƯ" huyền diệu lại thêm huyền diệu,chẳng vì nhân duyên mà có, chẳng do tự nhiên mà thành. Lìatứ cú, tuyệt bách phi, Phật nhãn chẳng thể thấy, thánhtâm cũng khó lường. Quăng đại thiên thế giới ra ngoài mườiphương, cuốn chặt pháp giới thành một mảy lông. Một khôngthì tất cả không, chẳng cần mổ xẻ; một có thì tất cảcó, đâu cần đào tạo. Trần sa chẳng thể dụ số nhiều,hào ly chẳng thể dụ số ít. Nói "Bặt nhân duyên, tuyệtđối đãi", tức là thể tánh huyền diệu của một chữ NHƯvậy.

TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG

Nói thì nói gần đúng, ngươinếu chứa lời nầy trong lòng, muốn tương ứng với thểtánh huyền diệu của chữ NHƯ, chẳng khác gì ôm lửa tronglòng mà cầu cho đừng cháy.

KỆ KẾT THÚC, RẰNG

Nói NHƯ ngoài NHƯ đâu cònNHƯ?

Núi khe trùng điệp ẩn nhàxưa.

Mặt trời lên cao ngủ mớithức,

Nhàn thấy mục đồng cưỡingược lừa.

5O. VẠN PHÁP TỀ QUÁN, QUIPHỤC TỰ NHIÊN

DỊCH

Muôn pháp cùng quán một lượt,tất cả trở về tự nhiên.

LỜI KHAI THỊ

Phật pháp chẳng ở ngoài tâm,thiền đạo đâu lìa trung đạo nhị biên, ngươi nếu khởitâm tìm cầu, lại xa thập vạn bát thiên. Có gì tam yếu tamhuyền, toàn thân chẳng hình bóng, ngay đó lìa ngữ ngôn.

Đạo nhân đâu cần cầu tươngưng,

Xưa nay chưa từng chẳng hiệntiền.

LỜI NGHĨA GIẢI

Tổ Sư nói: "VẠN PHÁP TỀQUÁN, QUI PHỤC TỰ NHIÊN", người nghĩa giải dẫn chứng giáomôn nói : "Tùy duyên nên chơn như là vạn pháp, bất biếnnên vạn pháp là chơn như". Còn nói : "Ngoài tâm chẳng cópháp để làm duyên với tâm vốn là tự tâm sanh, lại làmtướng cho tâm". Lời này so với cái lý "VẠN PHÁP TỀ QUÁN"của Tổ Sư, cũng chẳng cách xa vậy. Hoặc nói : "TỀ QUÁN"cũng là cái bóng của "chẳng lựa chọn", nếu còn lựa chọnthì chẳng thể TỀ QUÁN rồi.

TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG

Dẫn chứng thì chẳng phảikhông đúng. Như mặt trời mọc, mặt trăng lặn, ban đêm tối,ban ngày sáng, rõ ràng chẳng thể lẫn lộn. Vậy thì có đạolý gì để nói TỀ QUÁN? Lìa khỏi lời này, xin cho một tintức tốt hơn thử xem!

KỆ KẾT THÚC, RẰNG

Vạn Pháp làm sao khiến chobằng?

Đâu thể trở về lúc tựnhiên.

Xưa nay tri âm rất khó gặp,

Bá Nha, Tử kỳ đi đâu tìm.

51. DẪN KỲ SỞDĨ, BẤT KHẢ PHƯƠNG TỶ

DỊCH

Bặt hết lý giải, chẳng thểthí dụ.

LỜI KHAI THỊ

"Cái trong điện, cái ngoàitường" của Triệu Châu "Đánh xe đánh bò" của Mã Tổ, "Giơnắm tay, giơ ngón tay" của Câu Chi, "Ném ba trái banh gỗ" củaTuyết Phong. "Gởi ba tờ giấy trắng" của Huyền Sa. Nói tánhnói tâm nơi Linh Sơn, Nói da nói tủy nơi Thiếu Thất. TàoĐộng lập ngũ vị quân thần, Qui Ngưỡng lập cửa ThiềnCha Con, "Đầy mắt núi xanh" của Đức Thiều (Quốc Sư), "Nướchồ trước cửa" của Vĩnh Minh... thả đi thì sáng khắp bầutrời, chặn lại thì gió bay muôn dặm, trước lời không ngưngcơ xảo, tiếng nói đâu cho chõ mỏ. Hứ! Tất cả đều làmở mắt đái dầm, đốt nhang dẫn quỷ, tại sao vậy?

LỜI NGHĨA GIẢI

Tổ Sư nói: "DẪN KỲ SỞ DĨ,BẤT KHẢ PHƯƠNG TỶ", người nghĩa giải cho rằng : Kinh BátNhã dùng 100 dụ để dụ Bát Nhã, có kinh khác cũng dùng 100dụ để dụ giải thoát; còn có người dùng 100 dụ để dụtâm Bồ Đề, ghi đủ trong kinh sách, đâu có cái lý "Chẳngthể thí dụ"? Phải biết, Bát Nhã, giải thoát, Bồ Đề thìcó thể thí dụ, giả sử bỏ hết tất cả danh tướng, thìnhất tâm đều bặt. Ngay khi ấy, còn lập được thí dụgì chăng? Hoặc theo người xưa nói : "Cò trắng với tuyếtchẳng đồng sắc, ánh trăng hoa lau chẳng giống nhau", lờinày há chẳng phải thí dụ ư?

TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG

Ông muốn ở nơi tuyết trắnghoa lau tìm đạo lý, chẳng khác gì nhận màu đỏ của vỏquít cho là lửa!

KỆ KẾT THÚC, RẰNG

Diễn tả sừng thỏ dài 3 thước,

So với lông rùa ngắn l phân.

Lại có hạng người tánh hàmhồ,

Tai mắt dường như chẳng thấynghe.

52. CHE ĐỘNGVÔ ĐỘNG, ĐỘNG CHE VÔ CHE

DỊCH

Ngưng động chẳng phải tịnh,động ngưng cũng chẳng phải ngưng.

LỜI KHAI THỊ

Muôn toa xe đồng ray, muôn sựviệc đồng lý. Muôn dụng cụ đồng kim loại, muôn làn sóngđồng chất nước. Vạn tượng sum la, thảy đều là ông.Ông nếu không tin, hãy vào bụng của Thích Ca, Đạt Ma đihành cước trăm ngàn vòng, mới biết tất cả vẫn y như cũ.

LỜI NGHĨA GIẢI

Tổ Sư nói: "CHÆ ĐỘNG VÔĐỘNG, ĐỘNG CHÆ VÔ CHÆ", người nghĩa giải cho rằng : Lòngtừ bi thống thiết của Tổ Sư, đem hai bên động tịnh vòthành một khối, nói trắng cho nghe, đại khái đồng ý chỉcủa Pháp sư Tăng Triệu nói "Tức tịnh mà động, tức độngmà tịnh", cũng là ý chỉ "VẠN PHÁP TỀ QUÁN". Chẳng nhữngđộng tịnh như thế, mà tất cả cảnh duyên cũng đều nhưthế. Tức tịnh là động. Hoa rụng là do gió xuân đưa; tứcđộng là tịnh, băng tan cũng do mặt trời soi.

Người trí quán pháp chẳngsai biệt,

Kẻ mê do đây khởi điên đảo.

TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG

Lời này tạm gác một bên!Nếu như chẳng động chẳng tịnh, ngay khi ấy, còn có lýlẽ gì để thảo luận hay không? Nói mau, nói mau!

KỆ KẾT THÚC, RẰNG

Động tịnh mống khởi bệnhliền sanh,

Nắm tay kéo nhau vào lửa hồng.

Con voi xưa nay vẫn như cũ,

Bọn mù mò mẫm thảy đềusai.

53. "LƯỠNG KÝBẤT THÀNH, NHẤT HÀ HỮU NHĨ"

DỊCH

Hai đã chẳng thành, một làmsao có.

LỜI KHAI THỊ

Biển Phật không bờ, sôngThiền không đáy. Nước một thước, sóng một trượng, mãimãi không thôi. Mã Tổ bảo Bàng Uẩn "một hớp hết nướcTây Giang"; "Tào Nguyên một giọt nước" của Pháp Nhãn, "Câuhết làn sóng" của Thuyền Tử, tất cả thị phi trước kia,chỉ liên lụy cho Hứa Do phải rửa lỗ tai mà thôi. Nướclớn đầy trời, ngập khắp muôn dặm.

Lúc xưa chẳng biết bít nguồnsuối,

Đến nay đất bằng nổi lànsóng.

LỜI NGHĨA GIẢI

Tổ Sư nói : "LƯỠNG KÝ BẤTTHÀNH, NHẤT HÀ HỮU NHĨ", người nghĩa giải cho rằng : THỊchẳng phi không thị, PHI chẳng thị không phi, vừa thấy cóthị, trước đã có phi, vừa thấy có phi, trước đã có thị.Cho nên THỊ chẳng tự lập, PHI chẳng độc tồn, PHI là cộicủa THỊ, THỊ là gốc của PHI. Cho đến chơn, vọng, ngộ,mê, v.v... Tất cả đều vậy. Thế thì, cái hai của thị phiđã trừ, cái nhất của trung đạo đâu còn! Tổ Sư đếnđây thật là mổ bụng thấy tâm, từ bi quá lố rồi!

TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG

Nếu hai đã chẳng thành, mộtcũng không có. Vậy còn có kẻ biết "chẳng thành" "không có"chăng? Nếu nói "KHÔNG", thì ai biết sự chẳng thành, khôngcó? Nếu nói "Có", lại gọi là "KHÔNG CÓ" được chăng? Tổsư đến chỗ này, chỉ có phần đớ lưỡi.

KỆ KẾT THÚC, RẰNG

Chẳng thả xuân về, xuân tựvề,

Vườn cây mỗi mỗi hiện xanhtươi.

Bông tím hoa hồng biết đâukể,

Bươm bướm từng đôi bay khắpnơi.

54. CỨU CÁNHCÙNG CỰC, BẤT TỔN QUỶ TẮC

DỊCH

Cùng tột cứu cánh, chẳngcòn qui tắc.

LỜI KHAI THỊ

Mười tấc là thước, mườithước là trượng. Bên Đông mặt trời mọc, bên Tây mặttrời lặn, hỏi khắp mọi người trong vô số quốc độ,có ai chẳng biết? Tại sao nói đến Tổ Sư Thiền, mỗi mỗingơ ngác như vách sắt? Còn có câu "Mạc hậu lao quan" rấtkhó hiểu, chẳng ai che dấu cùng đưa ra một lượt. Ấy làcái gì? Thật là oan uổng!

LỜI NGHĨA GIẢI

Tổ Sư nói : "CỨU CÁNH CÙNGCỰC, BẤT TỔN QUỶ TẮC", người nghĩa giải cho rằng : Hưkhông, sắc tướng, lớn nhỏ, dài ngắn trong mười phươngpháp giới, tất cả đều là tự kỷ. Tùy chân bước, chẳngrời điền địa của Tổ tông; tùy miệng nói, đều là chơnlý của Cổ Phật. Cho đến ôm vợ mắng Thích Ca, say rượuđánh Di Lặc, đều thành nhất hạnh tam muội, còn nói chikhai, giá, trì, phạm v.v...? Nên Vĩnh Gia cũng nói: "Đại ngộchẳng kẹt nơi tiểu tiết".

TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG

Thôi, thôi! Nói cũng nói đượcquá rõ ràng, nhưng Diêm La Vương chỉ muốn bắt bọn nói nhữnglời này đến cho ăn gậy sắt. Việc này lợi hại ở chỗnào? Mọi người về nhà tự kiểm điểm xem.

KỆ KẾT THÚC, RẰNG

Tùy tay đem ra tùy miệng bàn,

Phóng túng tung hoành kim chỉnam,

"CHẲNG CÒN QUI TẮC" lại giữniệm,

Tụ tánh bất nhị thành haiba.

55. KHẾ TÂM BÌNHĐẲNG, SỞ TÁC CÂU TỨC

DỊCH

Khế hợp bản tâm thì tấtcả bình đẳng, năng tác sở tác đều tự dứt.

LỜI KHAI THỊ

Voi chúa quày đầu nhìn, sưtử chụp ngược lại, Chơn chẳng che ngụy, khúc (co) chẳngdấu trực (thẳng). Chỉ có tôn giả Kiều Trần Như suốtnăm tỉnh tọa, tỉnh tỉnh tịch tịch, cũng chẳng màng đếntháng thiếu là 29, tháng đủ là 30, đêm khuya thi đậu tâmkhông, thấu qua gai gốc khắp trời.

Nhàn dạo ngoài đồng mở mắtxem,

Hàn mai hoa nở tự tịch mịch.

LỜI NGHĨA GIẢI

Tổ Sư nói : "KHẾ TÂM BÌNHĐẲNG, SỞ TÁC CÂU TỨC", người nghĩa giải dẫn chứng trongkinh nói : "Pháp ấy bình đẳng, chẳng có cao thấp, ví nhưthủy ngân rơi xuống đất, giọt lớn viên tròn lớn, giọtnhỏviên tròn nhỏ, cả đại địa không có pháp nào chẳng tươngưng với tự tâm". Lúc Như Lai thành đạo, quán lại hạnhnghiệp tu hành từ nhiều kiếp đều như mộng huyễn, chẳngcó kẻ làm, cũng chẳng có kẻ không làm. Cho nên nói : "Tutập phạn hạnh như hoa đốm trên không; tọa nơi đạo tràngnhư bóng trăng dưới nước, hàng phục quân ma trong gương,thành tựu Phật sự trong mộng". Bởi do tâm này chưa thấurõ, ở nơi bình đẳng thấy bất bình đẳng, vì bất bìnhđẳng nên tất cả sở tác do đó sanh khởi vậy.

TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG

Kinh Viên Giác nói : "Tánh vốnbình đẳng, người bất bình đẳng nói là bình đẳng, đãđáng ăn 30 gậy, còn dẫn chứng bao nhiêu tri giải, lại càngthêm bất bình đẳng.

KỆ KẾT THÚC, RẰNG

Đã đến quê nhà còn về đâu?

Nằm dài trong am nắng giọicao.

Trăm ngàn huyền diệu đềuquên mất,

Suốt ngày cửa mở chẳng aivào.

56. HỔ NGHI TỊNHTẬN, CHÁNH TÍN ĐIỀU TRỰC

DỊCH

Hồ nghi dứt sạch, chánh tínvững chắc.

LỜI KHAI THỊ

Trâu cày cấy, chó giữ nhà,mèo bắt chuột, ngựa kéo xe, thấy lửa biết cháy, thấy nướcbiết ướt, tại sao đối với tự tâm, mỗi mỗi tối nhưdầu hắc? Nơi nghi lại thêm nghi, nơi chấp chồng thêm chấp.Chẳng cần nghi, cũng đừng chấp, ai biết muôn ngàn sai biệtnày, tất cả thánh hiền từ đây nhập.

LỜI NGHĨA GIẢI

Tổ Sư nói : "HỔ NGHI TỊNHTẬN, CHÁNH TÍN ĐIỀU TRỰC", người nghĩa giải cho rằng :TIN có 2 thứ : Chánh tín và tà tín. Tin tự tâm là Phật, chẳngcầu bên ngoài là chánh tín; chẳng tin tự tâm là Phật, khởitâm tìm cầu bên ngoài, dù có làm việc lớn, đều gọi làtà tín.

Phải biết, chánh tín cũngcó nghi : vì chưa chứng đắc nên phát nghi. Niệm nghi từ cạnvào sâu, lâu ngày không lui sụt, bỗng nhiên niệm nghi bùngnổ, tất cả thấu rõ, gọi là đại ngộ. Nên biết ngộlà quả của tín, tín là nhân của ngộ. Pháp sư Tăng Triệunói:

"Quả chẳng gồm nhân, vì nhânthành quả". Thế thì, lúc TIN tức là lúc ngộ, lúc ngộ chẳngkhác lúc tin. Bài MINH gọi là TÍN TÂM, chính là ý này vậy.

Phải biết, người đại cănkhí vừa nghe đề khởi, như gặp vật cũ, thấu rõ nơi tâm.Quần áo có thể quên mặc, tánh mạng có thể xả bỏ, màmuốn bảo người ấy bỏ chánh tín, dù chốc lát cũng chẳngthể được. Nên cổ nhân nói : "Giả sử bánh xe lửa, xoaychuyển đỉnh đầu tôi, cũng chẳng vì khổ này, làm mấttâm Bồ Đề. "Cái niệm chánh tín nếu thật vững chắc nhưthế, thì đâu có lẽ nào chẳng được thân chứng!

Ngoài ra, nếu do tà tín màsanh nghi, nghi mãi không thôi thì phải sanh khởi kiến chấpđiên đảo, đuổi theo cảnh duyên hư vọng, ắt đọa địangục vô gián.

TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG

Phải thì phải, nếu như TINtức là ngộ, thì ngộ phải lộn vào Nguồn Linh (tự tánh),đã lộn vào Nguồn Linh, thì cái chữ TIN này, còn đặt đểở chỗ nào? Nếu nói có chỗ để đặt thì xin chỉ ra xem!Nếu không chỗ đặt, thì lời Tổ Sư cũng thành lời thừarồi.

KỆ KẾT THÚC, RẰNG

Gốc tin chẳng chánh khởi hồnghi,

Niệm nghi tan rã Chánh tín khởi.

Lời nói rõ ràng được tươngtự,

Cách xa Tổ Đình như chân trời.

57. NHẤT THIẾTBẤT LƯU, VÔ KHẢ KÝ ỨC

DỊCH

Tất cả chẳng lưu giữ thìkhông thể ghi nhớ.

LỜI KHAI THỊ

Đại tâm rộng như hư không,đại trí sáng như mặt trời, đại nghi như đống lửa hồng,đại pháp như vách tường sắt. Bị Lâm Tế tận sức hétcũng chẳng thối lui, bị Đức Sơn thẳng tay đánh cũng chẳngchịu ngừng. Cây cột dây dưa dựng sâu chắc, leo quấn nhánhdây không thôi dứt. Ở trong đó có một kẻ ló đầu ra nói: "Đêm qua bị tôi nhổ tận gốc rồi". Vậy, cây cột dâydưa đã nắm trong tay, tính đặt để ở chỗ nào?

Trước lời ngoài câu chẳngbiết chỗ,

Càng khiến đất bằng thêmlồi lõm.

LỜI NGHĨA GIẢI

Tổ Sư nói : "NHẤT THIẾT BẤTLƯU, VÔ KHẢ KÝ ỨC", người nghĩa giải cho rằng : Chỗ tâmhành diệt là "tất cả chẳng lưu", đường ngôn ngữ dứtlà "không thể ghi nhớ"; Ngoài không có pháp để bỏ là tấtcả chẳng lưu, trong không có tâm để giữ là không thể ghinhớ. "Liễu liễu kiến, không một vật, chẳng phải người,chẳng phải Phật, hằng sa thế giới như bọt biển, tấtcả thánh hiền như điện chớp" cũng là tất cả chẳng lưu;"Đốt hương tỉnh tọa ở Nam đài, suốt ngày tỉnh lặngmuôn niệm quên, chẳng phải dứt tâm trừ vọng tưởng, chỉvì chẳng việc để suy lường" cũng là không thể ghi nhớ.

TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG

Vậy, dẫn chứng cũng đượctương tự, dẫu cho ông đem hết ngôn giáo của Phật Tổ dẫnchứng đến cái thúng đựng nước không chảy, chỉ là càngghi nhớ thêm nhiều mà thôi. Muốn tất cả chẳng giữ, hácó thể được ư?

KỆ KẾT THÚC, RẰNG

Tất cả chẳng giữ, càng sanhkiến (giải),

Trọn không ghi nhớ, vẫn còntri.

Nếu chẳng đích thân về quênhà,

Bệnh đói, bánh vẽ làm saotrị!

58. HƯ MINH TỰCHIẾU, BẤT LAO TÂM LỰC

DỊCH

Rổng sáng tự chiếu soi, chẳnglao nhọc tâm lực.

LỜI KHAI THỊ

Đạo cần mỗi ngày một bớt,học cần mỗi ngày một thêm. Bớt đến kiến chấp tiêu mất,thêm đến đầy bụng tức ngực, bỗng nhiên thêm bớt thảyđều quên, tay không về chùa ngồi hướng vách, trong thànhTrì Dương Vương-lão-sư, lạnh lẽo khiến người tưởng nhớmãi. Đừng tưởng nhớ, rổng sáng tự chiếu soi, chẳng phảido tâm lực.

LỜI NGHĨA GIẢI

Tổ Sư nói như thế, ngườinghĩa giải cho rằng : Trong sạch đã đầy tròn, chẳng dungnạp vật khác gọi là HƯ, hạt châu tự sáng tỏ, ánh trăngtự chiếu soi gọi là MINH. Đã hư mà minh, vật đến liềnhiện, là công dụng của tự chiếu, chẳng cho lộn lời nói.Ở đây, nếu thêm một mảy may tâm lực, thì chẳng thể cholà hư minh tự chiếu rồi.

TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG

Dẫn dụ rất là đúng lý,vậy ông thấy hư không phải là chẳng tướng mạo chăng?Xưa nay chưa từng nghe hư không tự nói : "Ta chẳng tướngmạo". Nếu hư không có thể nói được thì chẳng thể gọilà hư không, giả sử Tổ Sư đã biết có thí dụ này, thìcái lỗi lỡ lời cũng khó tránh khỏi vậy.

KỆ KẾT THÚC, RẰNG

Con dấu vàng ròng tâm ấn tâm,

Cần phải chư Tổ truyền thọnhau.

Lén lút lượm được cũngvô dụng,

Đâu thể bắt chước nói diệuhuyền!

59. PHI TƯ LƯỢNGXỨ, THỨC TÌNH NAN TRẮC

DỊCH

Chỗ lìa suy nghĩ, tình thứckhó lường.

LỜI KHAI THỊ

Bột trắng trong tuyết dễphân ra, thức tức duy tâm; Mực đen trong than khó biện biệt,duy tâm tức thức. Thức chẳng phải tâm, tâm chẳng phảithức. Dưới ánh mặt trời xem trắng đen, trước đài gươngsáng hiện xấu đẹp. Lời nói thế này, giống như lời giảngDuy Thức Luận của Pháp sư, trước mặt nạp tăng, làm saohiển lộ tin tức thiệt?

Chẳng phải tâm, chẳng phảithức, ban đêm chó sủa thôn hoa, mùa xuân oanh hót bờ liễu.Cá kình hút cạn sóng đáy biển, con rồng chạy vào vô-sanh-quốc,khiến Đại Phạm Vương giựt mình thức dậy, thẳng lên đỉnhtrời Sắc Cứu Cánh, tát cho hư không một bạt tai, rải xuốnglong châu trăm ngàn hột, tia sáng lấp lánh rọi áo đẹp.

LỜI NGHĨA GIẢI

Tổ Sư nói: "PHI TƯ LƯỢNGXỨ, THỨC TÌNH NAN TRẮC", người nghĩa giải cho rằng : Thứclà thức của nhà tâm, tâm là tâm của nhà thức, hai thứnày như nước với sữa rất khó phân biệt. Phải biết, thứclà nước, tâm là sữa trong nước, nên giáo môn nói : "Vuangỗng chọn sữa, đâu đồng loài vịt!". Trong nước đềucó sữa, chỉ có vua ngỗng mới biết phân biệt, ngoài ra cácthứ thủy tộc đều chẳng biết. Việc này dụ cho trong tấtcả thức đều có chơn tâm, chỉ có Phật Tổ mới rõ.

Cái giác chiếu soi của linhtri gọi là tâm, những suy tư, ghi, nhớ, thủ, xả, phân biệtv.v... gọi là thức. Thức có 8 thứ : Lục căn mỗi căn mộtthức, thứ 7 gọi Mạt Na, thứ 8 gọi A Lại Da cũng gọi làNhư Lai Tạng, bảy thức trước là nhánh lá, thức thứ 8 làcăn bản. Trong Kinh nói : "Lúc đầu thai thì đến trước, lúcchết thì đi sau, ngộ là Như Lai Tạng, mê là A Lại Da". Thứcnày nơi mê thì gìn giữ tất cả nghiệp thiện ác vô ký,xả thân thọ thân từ vô lượng kiếp; nơi ngộ thì giữgìn tất cả hạt giống Bồ Đề, giải thoát, trí huệ từlúc vô thỉ. Thức này từ mê vào ngộ, chuyển thành ĐạiViên Cảnh Trí, đổi tên mà chẳng đổi thể. Hiện nay ởtrong tứ đại, ngũ uẩn, các pháp thánh phàm, ghi nhớ rõ ràng,tác dụng phân biệt, cho đến kiến văn giác tri, tam giớirộn ràng, vạn pháp thăng trầm, mỗi niệm khởi diệt, đềunương nơi thức này mà sanh. Cho nên nói "Vạn pháp duy thức".Khuê Phong nói : "Pháp sanh vốn không, tất cả duy thức".

Học giả ngày nay, chẳng thểđem mạng căn một dao cắt đứt, đi khắp tòng lâm, chỉ biếtđem cái thông minh của mình dùng để dẫn khởi tình thức,ôm những huyền giải ghi nhớ trong lòng, gặp duyên mống khởi,chẳng biết huyền giải này là thuộc về "tình thức y-thông",lại chấp cho là khai ngộ. Hoặc lầm nhận cái cảm giác linhđộng rõ ràng trước mắt này, biện luận thao thao cho làtự kỷ. Giống như Kinh Lăng Nghiêm nói : "Bỏ trăm ngàn biểnlớn, chỉ nhận một bọt cho là nước cả biển". Kinh ViênGiác nói : "Đều là tập khí vọng tưởng phan duyên lục trần,chẳng phải tâm thể chơn thật". Hòa Thượng Trường Sa nói: "Những người học đạo chẳng biết chơn, chỉ vì xưa naynhận thức-thần", Vĩnh Gia nói :

"Tổn pháp tài, diệt công đức,tất cả đều do tâm ý thức" v.v... Chư Phật chư Tổ đãcó chỉ bày rõ ràng, mà trong mạt pháp, bệnh này ngày càngnhiều thêm! Nhưng kẻ mắc bệnh này là do lập chí học đạochẳng chơn chánh mà ra, nếu là quyết chí muốn rời khỏibiển sanh tử thì không chịu dấu mình trong tình thức. Chỉdo ban sơ một niệm muốn hiểu Thiền, hiểu Đạo, hiểu Phật,hiểu Pháp mới thành bệnh này.

Thức này như núi Thiết virộng lớn, bao vây họ từ vô thỉ, cũng như thiên binh vạnmã ngày đêm ở trước cửa lục căn, rình sơ hở của họ.Nếu không đủ chí quyết định liễu sanh tử, thì đi đâucũng phải vào đó.

Tổ Sư làm bài TÍN TÂM MINHnày, là mở rộng cửa Thiền cho kẻ hậu

học thoát bỏ tình thức, chỉtin tự tâm, cất bước liền vào. Nếu

tình thức của học giả cònmột mảy may chưa sạch, đọc bài MINH này

trở thành thuốc độc. Sựlợi hại như thế, nên 2 câu đầu nói "CHÍ

ĐẠO VÔ NAN, DUY HIỀM GIẢNTRẠCH". Chỉ 2 câu này, đem tâm với

thức phân giải rõ ràng. Tạisao? Nói "CHÍ ĐẠO VÔ NAN" tức là chỉ

chơn tâm; "DUY HIỀM GIẢN TRẠCH"tức là phá tình thức, kẻ tình

thức chưa quên, thấy ngườinói lời này, bèn nói : "Tôi chỉ chẳng

lựa chọn". Đâu biết chỉcái "chẳng lựa chọn" này đã là hiểu theo

tình thức rồi, huống là kẻmỗi mỗi chấp có, gặp cảnh sanh tình ư

!

Nên ý bài MINH này từ đầuđến cuối, nói đi nói lại, chẳng rời bản tâm, chẳng quavì giúp người học biện rõ tâm với thức mà thôi. Cho nênnói "PHI TƯ LƯỢNG XỨ, THỨC TÌNH NAN TRẮC".

TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG

Theo lời nói "DUY HIỀM GIẢNTRẠCH", nay lại ở trong pháp một tâm, chỉ ra tình và thức,ấy là lựa chọn hay chẳng lựa chọn? Nhưng tình và thức,với một tâm quả là khác hay là đồng ư? Người chơn thậthọc đạo, ở đây nếu chẳng thể xác định, mà muốn thấyý chỉ TÍN TÂM MINH của Tổ Sư, chẳng phải còn xa xôi ư!

KỆ KẾT THÚC, RẰNG

Chỗ lìa suy nghĩ rất khó lường,

Môn đồ học Phật đều nênrõ.

Ngay đó chẳng biết thiếuvật gì?

Thông minh lanh lợi lại bịlừa.

60. CHƠN NHƯ PHÁPGIỚI, VÔ THA VÔ TỰ

DỊCH

Chơn như Pháp Giới, chẳngngười chẳng mình.

LỜI KHAI THỊ

Sư Khoáng không lỗ tai, chíthần (tự tánh) không bản thể, Nguồn Linh không có đáy.Đạt Ma truyền tủy đâu thể được! Xưa kia ở chung chẳngbiết tên, hôm nay gặp nhau chẳng phải ngươi. Bóng trăng đẹpmà xuống nước chẳng chìm, gió lạnh lẽo mà sáu cửa tựmở. Chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, dây dưa mục leo quấntrước kiếp-không; "Gió chẳng động, phướn chẳng động",Huệ Năng đắc chí nơi phòng giả gạo.

Linh Chiếu rõ ràng ta chẳngbiết,

Mây trăng khe núi tự quen nhau.

LỜI NGHĨA GIẢI

Tổ Sư nói : "CHƠN NHƯ PHÁPGIỚI, VÔ THA VÔ TỰ", người nghĩa giải cho rằng : CHƠN NHƯPHÁP GIỚI là tổng danh của một tâm. Ngoài tâm chẳng phápthì đâu có cái tên gọi TỰ THA? Không những tự tha chẳnglập, cho đến núi sông, đất đai, hữu tình vô tình, đềuchẳng thể đắc lại thành có. Dù nói chẳng thể đắc màcó, cũng chẳng ngại an lập vật tượng tự tha. Tại sao?Chơn như pháp giới dụ như vàng, vật tượng tự tha dụ nhưbông tai, cà rá, dây chuyền...Phải biết vàng là thật thể,các đồ trang sức là quyền danh (tên gọi tạm). THẬT chiềutheo QUYỀN thì vật tượng tự tha chẳng ngại an lập, dungquyền về thật thì chỉ thấy chí thể của Nhất Chơn PhápGiới. Vậy, giả danh của các thứ trang sức chẳng cần trừmà tự mất rồi. Kẻ mê muội chẳng thông đạt ý chỉ viêndung của Tổ Sư, cho là đoạn diệt, đọa nơi rỗng không,lập cái thuyết "VÔ THA VÔ TỰ", ở đây cần phải biện bạchcho rõ.

TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG

Biện thì cứ biện, nhưng trongChơn Như Pháp Giới còn dung nạp được lời biện bạch nàychăng?

KỆ KẾT THÚC, RẰNG

Trong chẳng tự kỷ, ngoài chẳngtha (người khác),

Cả gan nuốt trọn trái bíkia.

Thẳng tay tặng người, ngườichẳng nhận,

Rải cát quăng bùn vẫn y xưa.

61. YẾU CẤPTƯƠNG ƯNG, DUY NGÔN BẤT NHỊ

DỊCH

Gấp muốn tương ưng, chỉnói bất nhị.

LỜI KHAI THỊ

Biển dụ cho tánh, đất dụcho tâm, chứa đầy mà chẳng tràn, hứng nặng mà chẳng sụp,dung nạp hư không chẳng ngằn mé, xuyên thấu cổ kim chẳngbiên cương. Trước nói "bất lạc", sau nói "bất muội", hồly tinh đâu phải hai con. Hôm qua nói "định", hôm nay nói "chẳngđịnh", cục cứt khô nuốt trọn vào bụng. Biện tài củaDuy Ma Cật khiến hàng Bồ Tát bịt miệng; lưỡi bén như kiếmcủa Văn Thù đã làm thầy cho bảy Phật. Tông ta vốn chẳngdây dưa này, chí lý đâu có ghi bia đá.

Tiếng sóng ngàn sông chìm biểnrộng,

Muôn núi hùng vĩ kém đỉnhcao.

LỜI NGHĨA GIẢI

Tổ Sư nói : "YẾU CẤP TƯƠNGƯNG, DUY NGÔN BẤT NHỊ", người nghĩa giải cho rằng : TổSư phí sức phân biệt, trước nói "Chỉ chê lựa chọn", kếnói "một cũng đừng giữ", "muôn Pháp cùng quán", "muôn Phápnhất như" v.v... đều là lý của 2 chữ "Chỉ nói". Nhưng chưPhật chúng sanh, bản thể bất nhị, nói "Thành Phật" đãlà lời thừa, vậy nói : "MUỐN GẤP TƯƠNG ƯNG" dường nhưthành 2 đoạn rồi. Nếu quả thật có cái lý tương ưng vàchẳng tương ưng, thì rõ ràng là nhị, đối với việc nàychưa thể không nghi.

TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG

Chỉ e cái nghi này chẳng chơnthật, chẳng vững chắc. Nếu Chơn thật vững chắc, thì cáinghi này sẽ có ngày tự bùng nổ. Nghi này nếu vỡ, thì NHỊvới BẤT NHỊ của tương ưng hay chẳng tương ưng đã thấurõ trước cơ xảo, lãnh hội ngoài ngôn ngữ, mới biết ơnlớn của Tổ Sư khó đền đáp.

Xưa Ngài Duy Ma Cật bảo chúngBồ Tát nói Pháp môn Bất Nhị, mỗi mỗi nói xong, lại bịchúng Bồ Tát hỏi ngược lại thì im lặng chẳng đáp. Lúcấy Văn Thù liền tán thán rằng "Chơn nhập Pháp môn BấtNhị". Vậy lời tán thán của Văn Thù sanh khởi từ chỗ nào?Nếu cho im lặng là pháp môn Bất Nhị, thì người bệnh câmvà người gỗ máy cũng đều được nhập pháp môn Bất Nhịrồi! Nếu im lặng có thể gọi là pháp môn Bất Nhị, thìngữ ngôn cũng có thể gọi là pháp môn Bất Nhị cho đếnca hát cười giỡn đều gọi là Bất Nhị ư? Tại sao chỉkhen một mình Duy Ma Cật vậy? Ở đây cần phải thấu rõý chỉ mũi kim đụng nhau đúng khớp của 2 vị đại sĩ VănThù và Duy Ma Cật, thì lời nói TƯƠNG ƯNG hay CHẲNG TƯƠNGƯNG trong một tiếng cười đã tẩy sạch rồi.

KỆ KẾT THÚC, RẰNG

Cửa Thiền Tổ Sư tuyệt chily,

Đá lửa điện chớp vẫn chậmtrì.

Muốn gấp tương ưng nói BẤTNHỊ,

Bà lão nhai cơm, mớm tiểunhi.

62. BẤT NHỊGIAI ĐỔNG, VÔ BẤT BAO DUNG

DỊCH

Bất Nhị chẳng phải đồng,Nhị mới có bao gồm.

LỜI KHAI THỊ

Tổ tổ tâm không, Phật Phậtđạo đồng. Tâm không thì các ngôi sao cùng hướng về BắcĐẩu, đạo đồng thì muôn dòng nước đều chảy vào BiểnĐông. Hưng Hóa hôm qua dự trai tăng trong làng, đạo ta nhấtquán; Đức Sơn đêm nay không trả lời, Công án hai lớp. BắtHổ dữ, phân rắn rồng, chẳng phí chút sức của Hải Thần;Nổ sấm sét, phủ mây mù, tiêu hao Long Vương bao nhiêu gió.Mũi kim gọt sắt đè chìm đại địa, vắt nước chỉ mànhngập khắp hư không. chẳng cán nắm, tuyệt cũi lồng, sôngThiền vốn chẳng có đò đưa, vách sắt đâu có cửa nẻothông.

LỜI NGHĨA GIẢI

Tổ sư nói : "BẤT NHỊ GIAIĐỔNG, VÔ BẤT BAO DUNG", hạng người hiểu theo văn tự chorằng : Kinh Pháp Hoa nói : "Chỉ một sự thật này, ngoài rađều chẳng chơn". Còn nói : "Tất cả chư Phật chỉ mộtPhật thừa, chẳng hai chẳng ba". Nói MỘT là diệu tâm sángtròn, thể lìa tu chứng, dọc gồm tam thế, ngang thấu mườiphương, sắc, không, sáng, tối lấy đó làm nguồn, thánh phàmmê ngộ lấy đó làm gốc. Cho đến cùng khắp pháp giới,nếu thấy có mảy may chẳng do đó sanh khởi, đều là sởchấp của ngoại đạo, cho nên nói "Sum la và vạn tượng domột pháp ấn định". Lời "BẤT NHỊ GIAI ĐỔNG, VÔ BẤT BAODUNG" chẳng thể ở ngoài nghĩa này.

TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG

Nói như thế, tất cả ngôngiáo đã ghi đầy đủ, đâu cần Tổ Sư từ Tây Trúc sang!Phải biết, ngôn giáo như bức tranh hoa của Triệu Xương,cao thấp xa gần, búp nở đậm nhạt, xem rất đẹp mắt, nhưngchẳng phải hoa thật vậy. Nếu chưa thể nơi gót chân mộtdao cắt đứt cuộn chỉ rối, thì đối với tông chỉ "BẤTNHỊ GIAI ĐỔNG", đâu thể chỉ miệng nói tai nghe mà đắcđược ư!

KỆ KẾT THÚC, RẰNG

Vàng ròng đúc thành trứnggà trống,

Đập nát y xưa vẫn còn nguyên.

Chẳng biết có gì bao trongđó,

Suốt đêm tia sáng rọi cànkhôn.

63. THẬP PHƯƠNGTRÍ GIẢ, GIAI NHẬP THỬ TÔNG

DỊCH

Người trí mười phương, đềuvào tông này.

LỜI KHAI THỊ

Chí thần vô công dụng, chíthể chẳng hỗn dung, như chuông nơi chánh điện, lỗ tai chẳngnghe động tịnh. Như mùa xuân đến vườn, nhánh hoa tự trắngtự hồng. Ngũ vị quân thần của Động Sơn, đàn tấu trướckhi chưa phổ nốt nhạc; bốn thứ chiếu dụng của Lâm Tế,là gia phong đánh roi sắt, vạn linh khó lường. Châu ngọcxoay chuyển trước đường cơ xảo, gió bay sấm sét, mở mắttrên đỉnh đầu. Suy nghĩ chẳng đến, nhanh cũng khó gặp.

Sắp xếp cổ Phật lìa hangổ.

Đánh cho rắn chết hóa thànhrồng.

LỜI NGHĨA GIẢI

Tổ sư nói : "THẬP PHƯƠNGTRÍ GIẢ, GIAI NHẬP THỬ TÔNG", người nghĩa giải dẫn chứngKinh Hoa Nghiêm nói : "Cảnh giới của Như Lai, vô lượng bằnghư không, tất cả chúng sanh vào, kỳ thật chẳng chỗ vào".Kinh Viên Giác nói : "Những người năng nhập. Nếu có năngnhập thì chẳng phải giác nhập". Phải biết, tông này tấtcả chúng sanh vốn đã thâm nhập, đâu có lý nào lại nhậpnữa! Chúng sanh đã như vậy, thì người trí không nên lạicó sở nhập. Vĩnh Minh nói : "Tâm chơn như vốn chẳng thểlìa", nhưng kẻ mê dụ là xuất, kẻ ngộ dụ là nhập, làmcho mê ngộ tương đối, thật đâu có sự xuất nhập ư!

TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG

Hãy gác lời này lại! Ôngcó từng ngộ chưa? Đợi ông chân thật có chỗ ngộ, mớithấy lời của Tổ Sư không dối.

KỆ KẾT THÚC, RẰNG

Đồng nói tông này khó đượcdiệu,

Người trí mười phương cứbàn nhau.

Nếu chưa buông tay rơi vựcthẳm,

Chỗ nhập đâu khác địa ngụcmôn.

64. TÔNG PHI XÚCDIÊN, NHẤT NIỆM VẠN NIÊN

DỊCH

Tông chỉ chẳng có ngắn dài,muôn năm một niệm, niệm muôn năm.

LỜI KHAI THỊ

Càn là trời, Khôn là đất,thiền chẳng khác giáo; dương là kỳ, âm là ngẫu, giáo đâulìa thiền. Chỉ vì so đo với nhau, khiến con rắn uốn quanhcùng mình, người chuyên Nhất tâm tam quán, người hay trựcchỉ đơn truyền. Nín như núi vách, nói như trời xa, bị kẻkhông mặt mũi gặp thấy bất bình, chặn ngang hét một tiếng,khiến cho Đạt Ma cùng Thiên Thai Hiền Thủ câm miệng nínthở, thỏng tay vào thành.

Mỗi người tự quét tuyếttrước cửa,

Chớ đem vô minh thấm thứcđiền.

LỜI NGHĨA GIẢI

Tổ Sư nói : "TÔNG PHI XÚC DIÊN,NHẤT NIỆM VẠN NIÊN", người nghĩa giải cho rằng : Tổ Sưlấy nhất tâm làm tông, trong pháp giới nhất tâm, cho kiếplà ngày mà chẳng rút ngắn, cho ngày là kiếp mà chẳng dàithêm. Nên xem l niệm là muôn năm, chuyển muôn năm thành l niệm,chẳng dài chẳng ngắn, chẳng ít chẳng nhiều, đâu phảido thần thông mà ra. Chỉ vì pháp vốn như thế.

TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG

Xưa kia có người trí nhà Nho,cho bài "Thọ yểu bằng nhau" là vọng tác, cho "tử sanh nhưmột" là hư dối. Nếu họ biết có cái thuyết "Một niệmmuôn năm", lại càng thêm kinh ngạc. Ấy cũng chẳng lạ gì,bởi chơn tục chẳng cùng lối mà thôi. Người xưa nói : "NóiChơn thì nghịch với tục, thuận tục thì trái với Chơn",há chẳng đúng ư! Làm sao khiến họ xé rách lưới tục, cắtđứt căn trần, trở lại xem cái cơ xảo viên thường tựtại, ngắn dài giúp nhau của Tổ Sư, thì cái lỗi lỡ lờimới mong có thể tránh khỏi. Dù vậy, muốn chẳng kẹt nơingắn dài, thử nói l câu xem!

KỆ KẾT THÚC, RẰNG

Sát na muôn kiếp chẳng ngắndài,

Đo lường hư không nói trònvuông.

Cứ ngay khi ấy chấp là thật,

Đứng xa ngoài cửa giành đúngsai.

65. VÔ TẠI BẤTTẠI, THẬP PHƯƠNG MỤC TIỀN

DỊCH

Chẳng phải có chỗ, chẳngphải không chỗ, mười phương hư không, chính là trước mắt.

LỜI KHAI THỊ

Cảnh Thanh sáu cửa, Lâm Tếtam huyền. Thiên Long giơ ngón tay, Am Chủ dựng nắm tay. Chỗcó Phật chẳng được trụ. Xoá hết Tây Thiên và Đông Độ;chỗ không Phật mau chạy qua, đánh bên Nam, động bên Bắc,chứng chỉ lãnh xong, sáu cửa vắng lặng.

Mở cửa thả ra hạt DươngChâu,

Chẳng cần đem theo mười vạntiền.

LỜI NGHĨA GIẢI

Tổ Sư nói: "VÔ TẠI BẤT TẠI,THẬP PHƯƠNG MỤC TIỀN". Hoặc có người dùng ý thức suylường rằng : Tâm chẳng hình tướng, đạo tuyệt bờ bến.Ngay nơi hình tướng mà chẳng ngại mỗi mỗi phân thân; dựanơi bờ bến mà đâu ngại trần trần hiển lộ! Trần trầnhiển lộ, chẳng lìa chỗ ở thường trạm nhiên; Mỗi mỗiphân thân, tìm mãi biết ông chẳng thể thấy. Ở đây, cáiý chỉ "VÔ TẠI BẤT TẠI, THẬP PHƯƠNG MỤC TIỀN" đã rõràng rồi.

TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG

Người nói lời này, đốivới việc bị mắng là "dòm bóng để trộm ánh sáng", thiếumột phần cho y cũng không được. Nếu chẳng thể đích thânhạ thủ phá vở hàng rào thiết vi, mà muốn thấy ý chỉVÔ TẠI BẤT TẠI của Tổ Sư, khác gì đi Trịnh Châu ra cửaTào Châu!

KỆ KẾT THÚC, RẰNG

"Ngay chỗ chẳng lìa" là vậtgì?

Lấp bít bốn phương khắpthái hư.

Ném ngay trước mặt chẳngche giấu,

Khiến kẻ nhìn thấy bị mắtmù.

66. CỰC TIỂUĐỔNG ĐẠI, VONG TUYỆT CẢNH GIỚI

DỊCH

Cực nhỏ đồng lớn, quênhẳn cảnh giới.

LỜI KHAI THỊ

Đầu Tử nói "Hoại", ĐạiTùy nói : "chẳng hoại". Đoạ hai quan ải này, đụng đâuđều chướng ngại. Không chướng ngại, chỉ cần đem haicâu ghép thành một chỗ xem, bèn thấy hạt bụi chẳng nhỏ,hư không chẳng lớn.

Công án saün sàng tuyệt chegiấu.

Đáy thùng vì sao chẳng chónglũng.

LỜI NGHĨA GIẢI

Tổ Sư nói : "CỰC TIỂU ĐỔNGĐẠI, VONG TUYỆT CẢNH GIỚI", người nghĩa giải cho rằng: Trước nói "VÔ TẠI BẤT TẠI" tức là đề mục của "CỰCTIỂU ĐỔNG ĐẠI, CỰC ĐẠI ĐỔNG TIỂU", nên Kinh Lăng Nghiêmnói : "Trên đầu sợi lông hiện cõi Phật, ngồi trong hạtbụi chuyển pháp luân". Nếu chẳng thấu đạt ý chỉ "VÔTẠI BẤT TẠI", thì đụng đâu cũng bị kẹt nơi cảnh giới.Đã bị kẹt nơi cảnh giới thì đâu có lý nào quên hẳnđược! Đã chẳng thể quên hẳn cảnh giới thì lớn có tướnglớn, nhỏ có tướng nhỏ, đâu thể dung nhiếp thành một!

TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG

Chỉ như người quên hẳn cảnhgiới, còn thấy lớn nhỏ hay không? Nếu nói thấy thì chưathể quên hẳn; nếu nói không thấy thì đâu khác chi ngườigỗ đất? Thử nói xem!

KỆ KẾT THÚC, RẰNG

Tu Di chứa bụi người đềunhận.

Bụi chứa Tu di Phật cũng nghi.

Dẫu cho kiến giải siêu tìnhlượng,

Khắc thuyền mò kiếm đã chậmtrì.

67. CỰC ĐẠIĐỔNG TIỂU, BẤT KIẾN BIÊN BIỂU

DỊCH

Cực lớn đồng nhỏ, chẳngthấy bờ mé.

LỜI KHAI THỊ

Đắc được chẳng phải đắc,thấu rõ đâu có rõ. Tâm địa hoa nở nơi tuyết xuân, Tánh-Thiênnắng rọi băng-hồ (dụ cho Vũ Trụ) sáng, Kim Phụng bay liệngtrên nhánh chưa mọc, voi ngọc nhiễu quanh bên cây không bóng.Bá Trượng giúp ông lão giải thoát thân chồn, nghèo nuôimột thân đã là nhiều; Văn Thù chẳng thể xuất định chocô gái, giàu chê ngàn người ăn vẫn còn ít. Chỉ biết cáchnúi thấy khói, ai hỏi ra cửa là cỏ. Tất cả saün sàng,không cần tìm kiếm, dẫu trong giày ống chơi kềm búa, cũnglà trước cửa đi quanh quẩn.

LỜI NGHĨA GIẢI

Tổ Sư nói : "CỰC ĐẠI ĐỔNGTIỂU, BẤT KIẾN BIÊN BIỂU". Hạng người nghĩa giải cho rằng: Xưa kia Duy Ma Cật dùng thần lực giải thoát bất tư nghì,đem 32 ngàn tòa sư tử để trong phòng trượng thất, mà phòngnhỏ chẳng thấy chật, tòa lớn chẳng rút nhỏ. Rồi dùngtay phải hái lấy thế giới Diệu Hỷ để vào phòng, nóivới đại chúng rằng : "Thế giới kia chẳng lay động, thếgiới này chẳng biến đổi". Đem lớn vào nhỏ, đem nhỏ vàolớn, dung nạp lẫn nhau, phi bỉ phi thử.

Theo kinh nói, thần lực giảithoát bất tư nghì này suốt kiếp chẳng hết, nhưng thầnlực này đều từ diệu tâm sáng tỏ chảy ra. Hoặc có ngườinói : "Nay tôi cũng từng ngộ diệu tâm sáng tỏ này, tạisao chẳng có thần lực? Hoặc đáp rằng : "Phải biết, thầnlực này vốn tự đầy đủ, chẳng cần tu chứng, sở dĩchưa thể hiện tiền vì kẻ sơ tâm nhập đạo, nơi sức địnhhuệ giải thoát chưa đầy đủ. Dù chưa đầy đủ, nhưngbổn giác trong tâm cũng chưa từng mất, khi cơ duyên đến,sẽ tự hiện mà thôi". Dù nói cơ duyên đến, song cũng khôngđược giữ một niệm tâm đợi chờ. Nếu còn có tâm đợichờ, liền rơi vào dị kiến. Ví như trẻ sơ sinh, chưa rờitấm tã mà muốn gánh nặng đi xa, có thể được ư? Dù chẳngthể gánh nặng đi xa, nhưng đối với việc gánh nặng đixa chưa thể hiện tiền, đâu có nghi ngờ kinh sợ gì! Kẻchơn tham thật ngộ nghe nói thần lực này, tự nhiên chẳngnghi ngờ kinh sợ. Nếu còn một mảy may nghi ngờ kinh sợ tồnchứa trong tâm, thì tâm này chưa từng khai ngộ.

Gần đây, bậc tăng sĩ hànhcước, chẳng cầu chánh ngộ, chỉ quý biện tài, lại bậcở địa vị làm thầy, phần nhiều thuận theo trào lưu, đốivới hành giả tham thiền, không dùng cơ xảo nghiêm khắc đánhđập, ai nấy cùng nhau đuổi theo vọng tình, khiến cho BátNhã ở tòng lâm bị quét sạch chẳng còn gì! Thật đáng tiếcthay!

Người có chí nên khắc khổtu hành, lấy đại ngộ làm kỳ hạn, mới báo đáp đượcơn sâu của Phật. Đức Phật đã từng nói hết những tệđoan ngày nay rằng : "Chúng sanh đời mạt pháp, hy vọng thànhđạo, chớ cho cầu ngộ. Vì người học rộng nghe nhiều,chỉ thêm đa văn, tăng trưởng ngã kiến". Lời Phật dù đãcách đây hơn 2000 năm, vẫn như hiện trên bàn tay, đủ thấylời của bậc Thánh chẳng dối chúng ta vậy!

TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG

Im đi, Im đi! Ông tưởng ngộrồi là xong ư? Dẫu cho ông chứng đắc thần lực giải thoátbất tư nghì, trong l sát na đem mạng căn của ông già Duy MaCật bóp nát. Nếu chưa thể quên được sở chứng của mình,còn ngồi ở chỗ thần dị cho là thù thắng, thì phải đếnđây ăn gậy của lão tăng!

KỆ KẾT THÚC, RẰNG

Lớn, nhỏ, mê, ngộ bặt dấutích,

Trăm ngàn thần lực thảy đềuquên.

Hành giả gặp ta giữa đườnghẹp,

Cây gậy đánh gãy chưa thểtha.

68. HỮU TỨCTHỊ VÔ, VÔ TỨC THỊ HỮU

DỊCH

Có tức là không, không tứclà có.

LỜI KHAI THỊ

Nửa đêm giờ Tý, gà gáy giờSửu, Thạch Nữ (làm bằng đá) may áo chẳng dấu nối, ngườigỗ ham uống rượu Bồ Đề. Lúc xế chiều giờ Thân, mặttrời lặn giờ Dậu, voi chúa đi sâu vào núi tuyết, sư tửrống nơi đống lửa hồng. Ngày đêm 12 thời chẳng cần đếmhết, 30 năm sau có người phân rõ. Vô vô vô chẳng vô, hữuhữu hữu đâu hữu gọi là trúc bề thì phạm, chẳng gọilà trúc bề thì trái. Phun hoa hương đầy áo, ông đã có câygậy, ta cho ông cây gậy, nắm bóng trăng trên bàn tay, tôngta chẳng lập giai cấp, đâu cần cưỡng phân xấu đẹp! Mộttrần khởi tam muội, nhiều trần nhập chánh thọ, gà vàngđá nhau dưới cây san hô, chó ngọc ngủ trong nụ hoa Chiêm-bặc.

LỜI NGHĨA GIẢI

Tổ sư nói : "HỮU TỨC THỊVÔ, VÔ TỨC THỊ HỮU", người nghĩa giải cho rằng : Hữuchẳng tự hữu, Hữu là hữu của nhà Vô : Vô chẳng tự Vô,Vô là vô của nhà Hữu. Hữu chẳng đơn chiếc, vô chẳngđộc lập. Người nói HỮU vì trước đã thấy VÔ, sau đómới nói HỮU. Nếu trong lòng trước chẳng thấy VÔ thì đâuthể ở ngoài đối đãi khi không nói HỮU! Nên biết, vô chẳngvô, vô tức là hữu; hữu chẳng hữu, hữu tức là vô. LýHỮU VÔ vốn cùng một nguồn, nơi một nguồn, nói HỮU thìdư cái hữu, nói VÔ thì thừa cái vô. Hữu Vô dung nhau đườngnói cũng bặt, ấy là ý chỉ "trở về nguồn" vậy.

TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG

Dù vậy, nếu chẳng phấn khởiđại chí, bặt sự tương đối của hữu vô nơi chánh ngộ,cứ khởi tâm phân biệt thì đâu có ngày được ý quên lờiư!

KỆ KẾT THÚC, RẰNG

Trong VÔ nói HỮU, hữu vẫnvô,

Vật này khó vẽ vào họa đồ.

Tức cười Triệu Châu quêntrói buộc,

Nói càn : bên nhà treo hồ lô.

69. NHƯỢC BẤTNHƯ THỬ, TẤT BẤT TU THỦ

DỊCH

Nếu chẳng như thế, ắt chẳngcần giữ.

LỜI KHAI THỊ

Lâm Hòa Tịnh thích trồng mai,Đào Uyên Minh chỉ trồng liễu. Cùng là một hạng cao nhãđạm bạc, nhưng cả hai đều lọt vào hang ổ. Đâu bằngkẻ không ý-chí, cắm một cọng cỏ trên miếng đất chẳngâm dương, khiến hoa nở trước khi có ánh nắng mặt trời,trái chín mùi sau khi sương tuyết. Các ngươi suốt ngày đêmlẩn quẩn đoán mò trong đó, có thấy chăng? Thấy thì rấtkî dùng mắt nhặm, chưa thấy thì chẳng nên chạy lăng xăng.

LỜI NGHĨA GIẢI

Tổ sư nói :"NHƯỢC BẤT NHƯTHỬ, TẤT BẤT TU THỦ", người nghĩa giải cho rằng : Đâylà lời dặn dò của Tổ Sư, nói phải có một niệm Chơnthật tương ưng với diệu tâm sáng tỏ và khế hợp vớibản giác nguồn linh. Nếu chẳng như thế, dù cho biện tàithao thao, đều là sở chấp của ngoại đạo. Hoặc nói : "Nếuchẳng như thế" là quyết định muốn người khế ngộ chơntâm. "Ắt chẳng cần giữ" là có ý muốn chỉ kẻ chẳng cầuchánh ngộ mà kẹt nơi ngôn thuyết cho là đắc chí. Nói ýnày cũng thông.

TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG

Vậy, như hai thuyết này nếuchẳng thể quên thân xả mạng, thề quyết đại ngộ, khibáo thân bỗng mất thì việc ta đâu còn! Chẳng biết ngườihọc ở trong bóng mộng huyễn, dựa vào đâu mà chẳng tựcảnh sách!

KỆ KẾT THÚC, RẰNG

Hết chấp HỮU, VÔ, quên sắc,không,

Kẻ trộm tự thú hiến tangvật.

Rẻ bằng vàng ròng, quý nhưsình,

Xót thương không chỗ đểvùi chôn.

70. NHẤT TỨCNHẤT THIẾT, NHẤT THIẾT TỨC NHẤT

DỊCH

Một là tất cả, tất cảlà một.

LỜI KHAI THỊ

HAI NĂM là mười, HAI NĂM cũnglà bảy, pháp vốn chẳng định, lãnh hội do người. Gọichúng sanh là chư Phật, bản thể đâu sai; gọi chư Phật làchúng sanh, lý cũng chẳng mất. Bỗng có người ra nói :

"Chúng sanh tự chúng sanh, chưPhật tự chư Phật, đâu thể thánh phàm lẫn lộn"! Khiếncho ông già Thích Ca khi không bị oan, chỉ cần nói với ôngta : "Vô thỉ vọng lưu chuyển, đều do sự chấp này".

Định tánh phàm phu bị Phậtquở,

Thiên thủ Quan Âm xô chẳngra.

LỜI NGHĨA GIẢI

Tổ Sư nói : "NHẤT TỨC NHẤTTHIẾT, NHẤT THIẾT TỨC NHẤT", hoặc có người dẫn chứngKinh nói : "Một là một của tất cả, tất cả là tất cảcủa một, nơi một chẳng ít, nơi tất cả chẳng nhiều, đâylà tâm và pháp cùng khắp, một với nhiều dung nhau, chẳngdo thần thông làm ra, ấy là pháp vốn như thế". Thuyết nàyghi đủ trong kinh sách, chẳng cần dẫn chứng, nói nhiều thêmphiền, nơi đạo vô ích.

Phải biết, Tổ sư trướctác MINH này, đến chỗ "BẤT NHỊ GIAI ĐỔNG, VÔ BẤT BAO DUNG",e kẻ hậu học chẳng thông đạt lý viên dung, trước dùng"dài ngắn tương tức (hổ tương), "kế dùng" lớn nhỏ tươngtức", kế nữa dùng "hữu vô tương tức", nay lại dùng "mộtnhiều tương tức, đem vô biên thế giới dung thành pháp mônbất nhị, khai thác vũ trụ của vạn vật, mở rộng quê hươngcủa chúng sanh, giúp cho hậu học chẳng cất bước mà đến,chẳng cách mảy trần mà nhập, chẳng ra sức mà thành, chẳngnổi niệm mà chứng nguyện đại từ đã thỏa mãn, công giáohóa cũng cùng khắp rồi.

TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG

Dù vậy, kẻ mang bức tranhngựa đi tìm ngựa ngày càng thêm nhiều, phải làm sao xoaymặt họ lại, luôn cả Tổ Sư cùng đuổi ra một lượt, mớibiết tri ơn báo ơn. Nếu không, ví như đuôi rùa dính sìnhmà quét dấu, càng quét càng thêm. Giải nghĩa lời Tổ Sưcũng giống như thế.

KỆ KẾT THÚC, RẰNG

Đại địa vò lại bằng hạtgạo,

Công khai đánh trống mọi ngườixem.

Mạt vàng trong mắt nếu chưatrừ,

Muốn biết trắng đen cũngkhó khăn.

71. ĐẢN NĂNGNHƯ THỊ, HÀ LỰ BẤT TẤT

DỊCH

Nếu được như thế, lo gìchẳng xong.

LỜI KHAI THỊ

Đại tâm chẳng y trụ, đạihóa chẳng dấu tích, đại cơ xảo chẳng cần làm, đại nhiệmvụ chẳng ra sức, chỗ muôn pháp toàn hiển bày, ánh sángvà hình bóng đều diệt;lúc một mảy lông chẳng hiện ra,lại chất đầy như núi.Mối trắng ăn lũng tâm Phật sắt,ruồi xanh đạp gãy lưng trâu vàng. Triệu Châu thấy ông buôngchẳng xuống, Yển Khê lại từ chỗ này vào. Tùy tay đem đến,tùy miệng nhổ ra, trí đâu thể biết, thức đâu nhận được.

Bao người ngó nhằm bị mùmắt,

Bất tài thừa kế uổng hứakhả.

LỜI NGHĨA GIẢI

Tổ Sư nói : "ĐẢN NĂNG NHƯTHỊ, HÀ LỰ BẤT TẤT", người nghĩa giải cho rằng : KinhPháp Hoa nói : "Nay ta vì ông bảo nhậm việc này, trọn chẳnghư dối", tức là ý "ĐẢN NĂNG NHƯ THỊ, HÀ LỰ BẤT TẤT"của Tổ sư, là lời vì người học mà bảo nhậm. Sự chíthành sách tấn thấy rõ ở đây.

TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG

Dù vậy, y quả được nhưthế hay chưa? Dẫu cho vừa nghe liền gật đầu ba cái đãtrễ tám khắc, suy nghĩ chốc lát thì bị bỏ mất quá lâurồi!

KỆ KẾT THÚC, RẰNG

Như thế, như thế, cứ nhưthế,

Việc xong lúc nào tìm hỏiai?

Gỡ được nhiều lớp da mặtsắt,

Đường về quê hương vẫnxa xôi.

72. TÍN TÂM BẤTNHỊ, BẤT NHỊ TÍN TÂM

DỊCH

Tin tự tâm là bất nhị, bấtnhị phải tin tự tâm.

LỜI KHAI THỊ

"Tâm là căn, pháp là trần,hai thứ như dấu bụi trên gương", Vĩnh Gia đại sư nói quálố, muốn đục mở con mắt trời người, còn như cách biển.Sao chẳng nói : "Tâm phi căn pháp phi trần, cùng chuyển NhưLai chánh pháp luân"? Bỗng có người nói : "Lời Vĩnh Gia nhưcách biển, lời ông nói như biển cách", đâu bằng Tam Tổnói "TÍN TÂM BẤT NHỊ, BẤT NHỊ TÍN TÂM". Hai câu này nhưtrái cân sắt, muốn đục chẳng lũng. chỉ nói với y : "Imđi, im đi! Kêu đến máu chảy cũng vô dụng, không bằng ngậmmiệng qua xuân tàn".

LỜI NGHĨA GIẢI

Hoặc có người nghĩa giảiý Tổ Sư rằng; chúng sanh mê tâm này đã lâu, nơi một phápvọng sanh phân biệt, mỗi mỗi phân biệt đều là nhị. Naythấy mình là tự ắt thấy người là tha, ấy gọi là cáinhị của tự tha. Từ đây sanh khởi vô số phân biệt, nhịlại thêm nhị, dùng toán số thí dụ cũng chẳng thể biếtđược số lượng, cho nên lòng từ bi của Tổ Sư thái quá,đề ra hai câu "TÍN TÂM BẤT NHỊ, BẤT NHỊ TÍN TÂM" làm chánhấn (con dấu chánh pháp), ngay đầu thiền giả dùng ấn ấnđịnh, như nắm bâu áo thì cả áo đều xuôi theo. Sấm sétđánh thức người mê mộng, nắng trời rọi khắp đườngtối tăm, khiến người mù thấy, người điếc nghe, ngườinghèo thành giàu, người ngu thành trí. Chẳng lìa căn nhà chiêmbao, cao đăng quốc độ chơn giác, dùng thân huyễn thẳng chứngbản thể kim cang, đáng xưng là thuốc thần trị bệnh sanhtử, là bậc đạo sư hướng dẫn từ phàm vào thánh.

Rất hay, rất hay.

TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG

Khen ngợi tạm ngưng đi! Chínhngay lúc ngộ đạo, cái thuyết "bất nhị" này, còn có chỗdung nạp hay không? Nếu không có chỗ dung nạp, thì Tổ Sưđến đây cũng đáng ăn gậy.

KỆ KẾT THÚC, RẰNG

Thánh phàm mê ngộ đều bấtnhị,

Thấu rõ vốn từ tín tâm ra.

Tâm chẳng sanh diệt ai mê ngộ?

Khi không nhảy vào hầm lửahồng.

73. NGÔN NGỮĐẠO ĐOẠN, PHI KHỨ LAI KIM

DỊCH

Đường ngôn ngữ chấm dứt,chẳng phải quá khứ hiện tại vị lai.

LỜI KHAI THỊ

Nói tâm tâm, phi tâm phi tâm.Tâm là phi tâm, phi tâm là tâm, giở đầu lên kéo chẳng dứt,buông tay xuống lại khó tìm. Những dây dưa này khởi từTây Trúc đã hơn 2000 năm, trong đó Tổ Tây Thiên 28 vị, truyềnĐông Độ 6 đời, cho đến kẻ ngu độn 1700, bày đặt muônthứ, trừ mãi chẳng hết, kéo nhánh dẫn dây, thẳng đếnngày nay, biến ra lò rèn trui phàm luyện thánh, hóa thành tònglâm, ngâm gió vịnh trăng. Bỗng có nhị kiến đua nhau khởi,giúp cho dị-chứng (tu chứng khác biệt) bài xích nhau. Phátthuốc đã nhiều mà bệnh càng thêm nặng, huống là lộn vàođộc của tà ma ngoại đạo, thành bệnh bó tay vô phươngtrị. Ngày nay trị ngựa chết xem như trị ngựa sống.

Im lặng giây lâu nói : "Thuốccơ xảo gật đầu 3 cái để tỏ ngộ, ngoài ngôn ngữ câuđược cá lý ngư".

LỜI NGHĨA GIẢI

Người nghĩa giải cho rằng: Đã là đường ngôn ngữ chấm dứt, thì bài MINH này chẳngphải lời thừa hay sao! Xem lời "Chẳng phải quá khứ hiệntại vị lai", mới biết mặt mũi của Tổ Sư còn đây!

TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG

Đừng nên xuyên tạc bậy bạ,làm trò cười cho kẻ bàng quan; họ đâu biết lý vốn viêndung, đạo chẳng thể lìa, đường ngôn ngữ chấm dứt màlại nói dài dòng đủ thứ, lời giải bừng bừng như lửa.Chẳng phải quá khứ, hiện tại, vị lai, thanh tịnh pháp thânthường tịch diệt, độc dược đề hồ khuấy thành l chén,vàng ròng miểng ngói vò thành l viên. Chỗ dùng không kháclại có tiêu chuẩn, kẻ một chân đạp tới đáy, chẳng códấu tích; kéo 3 lần chẳng quày đầu, vọng tự tính toán.Thật là Thánh sư của một đời, là mô phạm cho trăm kiếp,rút tủy phượng hoàng ra làm món ăn lạ cho cửa Thiền; lấygân sư tử, dứt tuyệt tiếng vang nơi nhà chí linh. Dù vậy,nhưng Tổ sư có chịu nhận cơm trà này hay không? Hãy thu dẹpdây dưa, mặc cho luận bàn.

KỆ KẾT THÚC, RẰNG

Chim vẽ chén sành hót nhạcxưa,

Lừa mù đêm khuya đổi giọngca.

Đường ngôn ngữ dứt, đạochẳng dứt,

Mặc kệ người đời loạnsuy tư.

ĐOẠN TỒNG KẾT

Phi văn phi tự, vô Phật vôtâm. Đem không lấp không, dùng độc trị độc. Công án củaTổ Tăng Xán thường tồn, tiếng tăm của Tông Đạt Ma chẳngsuy. Mặc cho người đọc TÍN TÂM MINH, rất kî ghi nhớ lờicủa Tổ. Thùng sơn đen vô ý đập lũng đáy, ngọc kỳ lânngay đó kéo quay về. Dùng hết gia tài cổ Phật, làm mù chánhnhãn đương cơ. xin hỏi linh nghiệm ở câu nào?

TÍN TÂMMINH TỊCH NGHĨA GIẢI HẾT.

TIỂU SỬTÁC GIẢ
HÀNG CHÂUTHIÊN MỤC TRUNG PHONG

Minh Bổn Thiền Sư (1263-1323)họ Tông, người Tiền Đường, mẹ nằm mộng thấy ông giàVô Mông Khai cầm lồng đèn đến nhà, sau đó bà hạ sanh.Ngay khi mới hiểu biết đôi chút, không cần dùng đến tảnữa, là đã biết ngồi kiết già. Vừa biết nói là đã cangay bài Tán Phật. Phàm chơi đùa đều làm theo Phật Sự -Chín tuổi, mẹ mất - Mười lăm tuổi, có ý muốn xuất gia.Nhàn xem Truyền Đăng Lục, đến chỗ Am-ma-la nữ hỏi ngàiVăn Thù: "Đã biết rõ sanh là lý bất sanh, tại sao lại bịsanh tử lưu chuyển?". Do đó liền phát nghi.

Sau ngài đi tham vấn hoà thượngCao Phong Diệu.

Tính ngài Cao Phong Diệu rấtnghiêm khắc. Bình thường, khi nói chuyện, ngài không biểulộ tình cảm ra sắc mặt. Vậy mà, khi vừa gặp ngài MinhBổn, thì ngài Cao Phong lộ vẻ rất vui mừng, hứa khả choxuống tóc liền.

Nhân khi tụng kinh Kim Cang, đếnchỗ "gánh vác Như Lai", trong tâm ngài hoát nhiên mở mang, đếnkhi thấy nước suối chảy, bèn bừng tỏ ngộ. Ngài bèn chạyđến Hòa Thượng Diệu Cao Phong cầu ấn chứng, bị hoà thượngđánh đập đuổi ra.

Một hôm, nhân có lệnh vuatuyển đồng nam đồng nữ vào cung, ngài Minh Bổn đến hỏihòa thượng Diệu :

Nếu bỗng nhiên có ngườimuốn hòa thượng lấy mấy người đồng nam đồng nữ thìlàm sao?

Hòa thượng Diệu đáp :

Ta cứ đưa cây trúc bề chohọ. Sư ngay lời nói, ngộ triệt để.

Hòa Thượng Diệu Cao Phong liềntự đề chân dung, phó chúc kệ cho sư :

Ngã tướng bất tư nghì

Phật tổ mạc năng thất

Độc hứa bất tiếu nhi

Đắc kiến bán biên tỉ

Dịch :

Ngã tướng bất tư nghì

Phật tổ chẳng thể biết

Chỉ hứa thằng du côn

Được thấy nửa bên mũi

Có người hỏi Hòa thượngDiệu :

Trong các đệ tử của ngài,ai hơn, ai kém?

Hòa thượng đáp :

Thủ tọa Nghĩa cố nhiên làcây trúc già, nhưng vẫn còn bảy tám đốt cong. Chỉ duy naBổn mới thật là cây tre xuất sắc trong rừng tre. Sau nàythành đạt không thể hạn lượng.

Sư không ở nơi nào nhất định.Khi thì dưới thuyền, lúc trong am cỏ. Mọi người gọi Sưlà "Huyễn Trụ". Tăng tục giành nhau chiêm lễ, tôn xưng ngàilà Cổ Phật miền Giang Nam.

Vua Nhân Tông nhà Nguyên thỉnhsư về triều. Sư từ tạ không đến. Vua ban cho Sư áo càsa kim lan và phong hiệu là Phật Từ Viên Chiếu Quảng HuệThiền Sư.

Sư thường quở người họcchỉ quí ngôn thuyết, chẳng cầu thực ngộ.

Ngài nói :

Nay người tham thiền khôngđược linh nghiệm là vì :

1. Không có chí khí chân thựcnhư người xưa.

2. Không lấy sanh tử vô thườngcho là việc lớn.

3. Tập khí từ nhiều kiếpđã không buông xuống được, lại không giữ được quyếttâm bền vững, không lui sụt.

Bệnh tại sao?

Đó chỉ vì không nhận biếtđược căn bản của sinh tử.

Phàm gặp người học, ngàihỏi :

Ngươi gọi cái gì là sanh tử?

Thì họ hoặc mịt mù khôngtrả lời, hoặc trả lời sanh không biết chỗ đến, chếtkhông biết chỗ đi là sanh tử.

Sư nói :

Dẫu cho biết, cũng vẫn làsanh tử!

Hoặc có người nói :

Một niệm khởi là sanh, mộtniệm diệt là tử.

Sư nói :

Lìa một niệm khởi diệt cũnglà sanh tử vậy. Phàm có lời nói đều là nhánh lá thôi,chẳng phải căn bản. Cái căn bản là tánh chân thật viêntròn sáng tỏ vốn chẳng có tướng sinh diệt khứ lai. Chỉvì bất giác bỗng khởi vọng tâm, lạc mất bổn nguyên, uổngchịu luân hồi, cho nên nói "mê thì sanh tử bắt đầu, ngộthì luân hồi ngưng nghỉ". Nên biết sơn hà đại địa, sángtối, sắc không, ngũ uẩn, tứ đại, cho đến các pháp độngtịnh, đều là nguồn gốc của sanh tử. Nếu chưa từng hướngvào pháp chân thực, hoát nhiên siêu ngộ, lại còn ở ngoàingộ tạo dựng cuộc sống ngồi trong hang ổ, đối với biểnsanh tử hoặc còn mảy may chưa tẩy sạch, thì khó tránh đượcsự mê hoặc của cảnh duyên thù thắng. Từ mê, sanh khởidị khiến, dù nói đã rõ rồi, chứ thực ra thì chưa. Cầnphải thống thiết vì đại sự sinh tử, cho đó là việc trọngđại nhất của mình. Tâm trộm cắp chết sạch mới có thểhy vọng. Nếu còn mảy may kiến chấp thiện ác, lấy bỏ,yêu ghét, dứt nối, thì sanh ra nhánh lá rồi, cần phải cẩnthận.

Ngày 15 tháng 8 năm Quý Hợi,tức năm 1323 dương lịch, ngài thuyết kệ từ giã chúng rằng:

Ngã hữu nhất cú

Phân phó đại chúng

Cánh vấn như hà

Vô bản khả cứ

Dịch

Ta có một câu

Phó chúc đại chúng

Lại hỏi thế nào

Vốn chẳng căn cứ.

Rồi ngài buông bút ngồi màtịch. Đệ tử xây tháp thờ ngài nơi hướng Tây núi ThiênMục.

Năm thứ hai niên hiệu NguyênThông (1334) vua Thuận Đế nhà Nguyên Truyền cho ba chục quyễnQuảng Lục vào Đại Tạng Kinh và phong ngài hiệu là PhổỨng Quốc Sư.

Ghi Chú

Tâm trộm cắp : Ý ngài muốnnói người tham thiền ngoài nghi tình, hễ có nổi lên bấtcứ một niệm nào, dù là Bồ đề Niết bàn, cũng đều chướngngại cho sự kiến tánh, đều gọi là tâm trộm cắp.

信心銘Tín Tâm Minh

至道無難唯嫌揀擇 1 Chí đạo vô nan duy hiềm giản trạch

但莫憎愛洞然明白 2 Đản mạc tăng ái động nhiên minh bạch

毫厘有差天地懸隔 3 Hào ly hữu sai thiên địa huyền cách

欲得現前莫存順逆 4 Dục đắc hiện tiền mạc tồn thuận nghịch.

違順相爭是為心病 5 Vi thuận tương tranh thị vi tâm bệnh

不識玄旨徒勞念靜 6 Bất thức huyền chỉ đồ lao niệm tĩnh

圓同太虛無欠無餘7 Viên đồng thái hư vô khiếm vô dư

良由取捨所以不如 8 Lương do thủ xả sở dĩ bất như.

莫逐有緣勿住空忍 9 Mạc trục hữu duyên vật trụ khôngnhẫn

一種平懷泯然自盡 10 Nhất chủng bình hoài dẫn nhiên tự tận

止動歸止止更彌動 11 Chỉ động quy chỉ chỉ cánh di động

唯滯兩邊寧知一種 12 Duy trệ lưỡng biên ninh tri nhất chủng.

一種不通兩處失功 13Nhất chủng bất thông lưỡng xứ thất công

遣有沒有從空背空 14 Khiển hữu một hữu tùng không bối không

多言多慮轉不相應 15 Đa ngôn đa lự chuyểnbất tương ưng

絕言絕慮無處不通 16Tuyệtngôn tuyệt lự vô xứ bất thông.

歸根得旨隨照失宗 17 Quy căn đắc chỉ tùy chiếu thất tông

須臾返照勝卻前空 18 Tu du phản chiếu thắng khước tiền không

前空轉變皆由妄見 19 Tiền không chuyển biến giai do vọng kiến

不用求真唯須息見 20 Bất dụng cầu chơn duy tu tức kiến.

二 見不 住 愼莫 追 尋21 Nhị kiếnbất tụ thậnmạc truy tầm

才 有是 非 紛然 失 心22 Tài hữu thị phi phânnhiênthấttâm

二 由一 有 一亦 莫 守23Nhị donhất hữu nhất diệc mạcthủ

一 心不 生 萬法 無 咎24 Nhất tâmbất sanhvạnpháp vôcữu.

無 咎無 法 不生 不 心25 Vô cữu vô phápbất sanh bấttâm

能 隨境 滅 境逐 能 沈26 Năng tùy cảnh diệt cảnh trục năng trầm

境 由能 境 能由 境 能27 Cảnh do năng cảnh năng do cảnh năng

欲 知兩 段 元是 一 空28 Dục tri lưỡng đoạn nguyên thị nhất không.

一 空同 兩 齊含 萬 象29 Nhất không đồng lưỡng tề hàm vạn tượng

不 見精 麤 寧有 扁 黨30 Bất kiến tinh thô ninh hữu thiên đảng

大 道體 寬 無易 無 難31 Đại đạo thể khoan vô dị vô nan

小 見狐 疑 轉急 轉 遲32 Tiểu kiến hồ nghi chuyển cấp chuyển trì.

執之失度必入邪路 33 Chấp chi thất độ tất nhập tà lộ

放之自然體無去住 34 Phóng chi tự nhiên thể vô khứ trụ

任性合道逍遙絕惱 35 Nhậm tánh hợp đạo tiêu dao tuyệtnão

繫念乖真昏沈不好 36 Hệ niệm quai chơn hôn trầm bất hảo.

不好勞神何用疏親 37 Bất hảo lao thần hà dụng sơ thân

欲取一乘勿惡六塵 38Dục thủ nhất thừa vật ố lục trần

六塵不惡還同正覺 39 Lục trần bất ác hoàn đồng chánh giác

智者無為愚人自縛 40 Trí giả vô vi ngu nhân tự phược.

法無異法妄自愛著 41 Pháp vô dị pháp vọng tự ái trước

將心用心豈非大錯 42 Tương tâm dụng tâm khởi phi đại thác

迷生寂亂悟無好惡 43 Mê sanh tịch loạn ngộ vô hảo ác

一切二邊良由斟酌 44 Nhất thiết nhị biên lương do châm chước

夢幻虛華何勞把捉 45 Mộng huyễn hư hoa hà lao bả tróc

得失是非一時放卻 46Đắc thất thị phi nhất thời phóng khước

眼若不睡諸夢自除 47 Nhãn nhược bất thụy chư mộng tự trừ

心若不異萬法一如 48Tâm nhược bất dị vạn phápnhất như.

一如體玄兀爾忘緣 49 Nhất như thể huyền ngột nhĩ vongduyên

萬法齊觀歸復自然 50Vạn pháp tề quán qui phục tự nhiên

泯其所以不可方比 51 Dẫn kỳ sở dĩ bất khảphương tỷ

止動無動動止無止 52 Chỉ động vô động động chỉ vô chỉ.

兩 既不 成 一何 有 爾53 Lưỡng ký bất thành nhất hà hữu nhĩ

究 竟窮 極 不存 軌 則54 Cứu cánh cùng cực bất tồn quỹ tắc

契 心平 等 所作 俱 息55 Khế tâm bình đẳng sở tác câu tức

狐 疑盡 淨 正信 調 直56 Hồ nghi tận tịnh chánh tín điều trực.

一切不留無可記憶 57 Nhất thiết bất lưu vô khả ký ức

虛明自照不勞心力 58 Hưminh tự chiếubất lao tâm lực

非思量處識情難測 59 Phi tư lượng xứ thức tình nan trắc

真如法界無他無自 60Chân như pháp giới vô tha vô tự.

要急相應唯言不二 61Yếu cấp tương ưng duy ngôn bất nhị

不二皆同無不包容 62 Bất nhị giai đồng vô bất bao dung

十方智者皆入此宗 63 Thập phương trí giả giai nhập thử tông

宗非促延一念萬年 64Tông phi xúc diên nhất niệm vạn niên.

無在不在十方目前 65 Vô tại bất tại thập phương mụctiền

極小同大忘絕境界 66Cực tiểu đồng đại vong tuyệt cảnhgiới

極大同小不見邊表 67 Cực đại đồng tiểu bất kiến biên biểu

有即是無無即是有 68 Hữu tức thị vô vô tức thị hữu.

若不如此必不須守 69Nhược bất như thử tất bất tu thủ

一即一切一切即一 70 Nhất tức nhất thiết nhất thiết tức nhất

但能如是何慮不畢 71Đản năng như thị hà lự bất tất

信心不二不二信心 72 Tín tâm bất nhị bất nhị tín tâm

言語道斷非去來今 73 Ngôn ngữ đạo đoạn phi khứ lai kim

Tin Vào Tâm

1.Đạo lớn không khó với ai khôngphân biệt.

2. Không còn yêu ghét, thì mọi sựđều sáng tỏ, minh bạch,

3. Chỉ một thoáng phê phán cũngkhiến đất trời xa nhau vô tận

4. Muốn đạt chân lý hãy tránh phânbiệt phải trái.

5. Bận rộn với đúng sai là bệnh củatâm.

6. Chưa hiểu bản chất của sự vật thìtâm còn bất an.

7.ĐườngĐạo hoàn hảo như không gian,không thiếu cũng không thừa.

8. Chính vì cứ khẳng định hoặc phủnhận nên chẳng bao giờ nhận được thực chất của sự vật.

9. Chẳng nên vướng mắc vào ngoại vậthoặc đắm mình vào cảnh không bên trong.

10. Sống ung dung tự tại, hài hòavới mọi sự vật thì chẳng còn mê lầm.

11. Càng muốn ngưng hoạt động đểđược an tịnh thì càng vọng động.

12. Còn đi từ thái cực này sang tháicực khác thì càng xa tâm Phật.

13. Còn ôm giữ tâm phàm thì có năng độnghay an tịnh, khẳng định hay phủ nhận thì cũng chẳng tìm ra tâm Phật.

14. Phủ nhận thực chất của sự vật làkhông nắmđược thực tại.Công nhận sự vật không thật cũng không nắmđược thực tại.

15. Càng nghĩ càng bàn đến, thì càngxa chân lý.

16. Thôi nghĩ bàn thì sẽ hiểuđượctất cả

17. Trở về nguồn cội là tìm đượcthực chất của mình.Chạy theo hình tướng bên ngoài hay muốn giác ngộ là càng xalìa nguồn cội.

18. Tỉnh thức dù chỉ trong chốc látcũng là vượt khỏi hình tướng và hư không.

19. Ta coi những biến chuyển tronghư không là thực chỉ vì còn mê lầm.

20. Chẳng nên đi tìm chân lý, chỉcần từ bỏ mọi quan niệm.

21. Không nên lúc nào cũng phân biệttốt, xấu; hơn thế nữa, nên thận trọng dẹp bỏ thói quen này.

22. Còn quyến luyếnđiều nàyđiều nọ,còn phê phánđúng sai, thì tâm sẽ rối loạn.

23. Dù tốt hay xấu cũng từ một gốcmà ra, nhưng bám víu vào gốc này thì cũng chẳng nên.

24. Nếu trênđườngđạo tâm không xao động,thì chẳng có gì làm bận lòng.Một khi sự vật không còn làm bận lòng, chúng khôngcòn như xưa.

25. Không còn quyến luyến tư tưởngyêu ghét, cái tâm cũ không còn nữa.

26. Một khi “ta” và sự vật bên ngoàikhông còn chia chẻ thì tâm cũng chẳng còn.Cũng như vậy, khi chủ thể suy tưởngkhông còn thì các sự vật đối tượng cũng chẳng còn.

27. Vì có chủ thể nên mới có sự vật đốitượng.Vì có sự vật nên mới có tâm chủ thể.

28. Hãy hiểu rằng chủ thể và đốitượng chỉ là hai mặt của một thực tại duy nhất: tánh không.

29. Trong tánh không này, hai mặtthật sự chỉ là một và trong mỗi mặt là toàn thể các hiện tượng.

30. Nếu không phân biệt thô và tinhtế, thì cũng sẽ không có thành kiến hoặc quan niệm.

31. Sống theo đạo lớn không dễ cũngchẳng khó.

32. Những ai có lối nhìn hạn hẹpthường sợ hãi và thiếu cương quyết.Càng vội vã, càng tiến chậm.

33. Tâm còn hẹp hòi và còn ham muốngiác ngộ là hoàn toàn sai lầm.

34. Cứ để mọi chuyện xẩy ra tựnhiên, thì chẳng cóđi hayở.

35. Cứ theo bản tính tự nhiên thì sẽbước tự do không vướng ngại.

36. Khi tâm vướng bận, chân lý bịche khuất vì mọi vật đều mờ ảo tối tăm.

37. Phê phán chỉ làm mệt mỏi và đemđếnkhó khăn.Phân biệt, chia chẻ thì lợi ích gì?

38. Muốn bước trên đườngđạo, nêntránh ghét bỏ cả thế giới của giác quan và của tư tưởng.

39. Thật vậy, hoàn toàn chấp nhận làthật sự giác ngộ.

40. Kẻ hiền không mong cầu điều gìtrong khi người ngu xuẩn cứ tự trói buộc mình.

41. Chỉ có một chân lý, một đường đạo,một giới luật, không có nhiều. Kẻ mê muội vì cần bám víu nên thích phân biệt.

42.Đi tìm trí tuệ bằng cái tâm phânbiệt là sai lầm lớn nhất.

43. Tĩnh và độngđều là ảo tưởng. Mộtkhiđ ã giác ngộ thì không cònyêu hay ghét.

44. Vì thiếu sáng suốt nên mới phânbiệt tốt xấu.

45. Tốt xấu, phải trái giống như ảoảnh,huyễn mộng.Có khờ mới muốn nắm bắt lấy chúng.

46. Phải từ bỏ những tư tưởng hơnthiệt,đúng sai tức thời

47. Không bao giờ ngủ thì làm sao cómộng.

48. Cái tâm không phân biệt thì vạnvật hiện hữu như thế, nghĩa là chúng có cùng một thực chất.

49. Hiểu được bí mật của thựcchấtđộc nhất này thì thoát khỏi mọi vướng mắc.

50. Nhìn được mọi vật như nhauthì đạt được tinh túy của đại ngã.

51. Không thể nào so sánh hay diễntả trạng thái tự tại, không liên hệ này.

52. Khi không có hoạtđộng thì cótĩnh và khi có tĩnh thì làm gì có ngưng hoạt động?

53. Khi những đối nghịch không còn,thì trạng thái đồng nhất cũng không còn.

54. Khi đã đến trạng thái cuối cùngnày thì không thể áp dụngđịnh luật nào được nữa.

55. Vì cái tâmđồng nhất với đạokhông cần cố gắng nữa.

56. Nghi ngờ và ngập ngừng tiêutan.Sự thật sáng tỏ trong tâm.

57. Trong thoáng chốc, xiềng xích đượctháo gỡ.Không còn gì níu kéo, cũng không còn gì để bám víu vào.

58. Tất cả trống không, rõ ràng, tựsáng tỏ, không cần vận dụng đến trí.

59. Tư tưởng, cảm xúc, tri kiến trởthành vô nghĩa.

60. Trong cõi như thị này, chẳng cònngã cũng chẳng còn cái gì không phải là ngã.

61.Để sống hòa hợp với thực tại này,mỗi khi ngờ vực thì chỉ cần nói “Không Hai”.

62. Trong “không hai”, không có gìphân cách, không có gì bị loại ra ngoài.

63. Bất luận khi nào hay ở đâu, giácngộ là bước vào chân lý này.

64. Chân lý vượt khỏi thời gian vàkhông gian dù thu hẹp hay nới rộng. Trong chân lý này, một tư tưởng dài muônnăm.

65. Hư vô ởđây hư vô ở kia. Thật ra,vũ trụ vô tận lúc nào cũng ở trước mắt.

66. Vũ trụ hoặc vô cùng bát ngáthoặc vô cùng li ti.

67. Cũng như nhau thôi vì định nghĩavà biên giớiđã tan rã.

68.Đối với hiện hữu và không hiệnhữu cũng vậy.

69.Đừng phí thì giờ bàn cãi hay tìmhiểu cái không thể hiểu.

70. Mỗi sự vật là sự thể hiện củacái độc nhất.Đồng thời, cái độc nhất thể hiện dưới hình thức mọi sự vật.

71. Sống được như vậy thì chẳng cònphải lo âu đến những gì không hoàn mỹ.

72. Tin vào Tâm là sống không chiachẻ, là hòa mình với nguồn gốc của mọi sự vật..

73. Ngôn ngữ! Đạo vượt khỏi ngônngữ, vì trên đường Đạo không có hôm qua, không có ngày mai, không có hôm nay.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com