- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa (24 tập)
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 2
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 3
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 4
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 5
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 6
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 7
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 8
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 9
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 10
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 11
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 12
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 13
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 14
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 15
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 16
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 17
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 18
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 19
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 20
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 21
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 22
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 23
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 24
- Tiểu sử dịch giả HT Thích Trí Nghiêm
Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 18
Quyển thứ 438
Hội thứ hai phẩm Đông Bắc Phương thứ 43-1
Nguồn: Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm
Khi ấy, Thiên Đế Thích khởi nghĩ này rằng : Nếu các thiện nam tử, thiện nữ nhân được nghe danh tự pháp môn kinh điển Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu một phen qua tai, các thiện nam tử thiện nữ nhân này đã ở vô lượng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác quá khứ gần gũi cúng dường, phát thệ nguyện rộng, trồng các căn lành, được nhiều bạn thiện tri thức nhiếp thọ; huống năng thơ tả thọ trì đọc tụng, suy nghĩ đúng lý, vì người diễn nói, hoặc năng theo sức như nói tu hành. Phải biết người này quyết định ở chỗ vô lượng Phật quá khứ gần gũi thừa sự, cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen, trồng nhiều cội đức, từng nghe Bát nhã Ba la mật đa. Nghe rồi thọ trì, suy nghĩ đọc tụng, vì người diễn nói, như dạy tu hành, hoặc đối kinh này năng hỏi năng đáp. Nhờ phước lực đây nay xong việc này.
Nếu các thiện nam tử, thiện nữ nhân đã từng cúng dường vô lượng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, công đức thuần tịnh, nghe Bát nhã Ba la mật đa đây, tâm kia chẳng kinh chẳng e chẳng sợ, nghe rồi tin vui như nói tu hành. Phải biết người này từng ở quá khứ nhiều trăm ngàn kiếp tu tập bố thí cho đến bát nhã Ba la mật đa, nên với đời nay năng thành việc này.
Bấy giờ, Xá Lợi Tử thưa Phật rằng : Bạch Thế Tôn ! Nếu các thiện nam tử, thiện nữ nhân nghe trong kinh Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu đây có bao nghĩa thú, chẳng kinh chẳng sợ cũng chẳng sanh nghi. Nghe rồi thọ trì, suy nghĩ đọc tụng, thơ tả giải nói, như nói tu hành. Phải biết người này đã đối Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề được chẳng quay lui. Vì cớ sao ?
Bạch Thế Tôn ! Bát nhã Ba la mật đa như thế, nghĩa thú thẳm sâu rất khó tin hiểu. Nếu ở đời trước chẳng tu tập lâu bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa, dễ đâu tạm được nghe tức tin hiểu đặng.
Bạch Thế Tôn ! Nếu các thiện nam tử, thiện nữ nhân nghe thuyết Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu như thế hủy chê bài báng. Phải biết người này đã ở đời trước do lòng tham sân si che lấp, nên đối kinh điển Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu cũng từng hủy báng. Vì cớ sao ?
Bạch Thế Tôn ! Người ngu si như thế nghe thuyết Bát nhã Ba la mật đa nghĩa thú thẳm sâu, bởi sức thói quen chẳng tin chẳng muốn, tâm chẳng thanh tịnh. Sở dĩ vì sao ?
Người si như thế ở đời quá khứ chưa từng gần gũi chư Phật Bồ tát và chúng đệ tử, chưa từng thỉnh hỏi làm sao nên hành bố thí Ba la mật đa cho đến bát nhã Ba la mật đa. Làm sao nên trụ nội không cho đến vô tánh tự tánh không. Làm sao nên tu bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi. Làm sao nên học Phật mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Nên nay nghe thuyết Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, hủy chê bài báng chẳng tin chẳng muốn, tâm chẳng thanh tịnh.
Bấy giờ, Thiên Đế Thích thưa Phật rằng : Bạch Thế Tôn ! Bát nhã Ba la mật đa như thế nghĩa thú thẳm sâu rất khó tin hiểu. Nếu các thiện nam tử, thiện nữ nhân chưa lâu tin hiểu vui muốn tu hành bố thí Ba la mật đa cho đến Bát nhã Ba la mật đa. Chưa lâu tin muốn an trụ nội không cho đến vô tánh tự tánh không. Chưa lâu tin muốn tu tập bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi. Chưa lâu tin muốn tu tập tám giải thoát, chín thứ đệ tịnh, năm thần thông.
Chưa lâu tin muốn tu học Như Lai mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng và vô lượng vô biên Phật pháp khác. Các thiện nam tử, thiện nữ nhân này nghe Bát nhã Ba la mật đa đây nghĩa thú thẳm sâu chẳng năng tin hiểu, hoặc sanh hủy báng, chưa là hiếm có.
Bạch Thế Tôn ! Tôi nay kính lễ Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu. Bạch Thế Tôn ! Nếu tôi kính lễ Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu tức là kính lễ Nhất thiết tướng trí ?
Bấy giờ, Phật bảo Thiên Đế Thích rằng : Như vậy như vậy. Như ngươi đã nói, kính lễ Bát nhã Ba la mật đa tức là kính lễ Nhất thiết tướng trí ? Vì cớ sao ?
Kiều Thi Ca ! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, hoặc nhất thiết trí, hoặc đạo tướng trí, hoặc nhất thiết tướng trí đều từ Bát nhã Ba la mật đa mà sanh ra vậy.
Kiều Thi Ca ! Nếu các thiện nam tử thiện nữ nhân, muốn trụ Như Lai nhất thiết tướng trí, phải trụ Bát nhã Ba la mật đa. Muốn sanh Như Lai nhất thiết trí, đạo tướng trí và các công đức khác, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Muốn được dứt hẳn tất cả phiền não tập khí nối nhau, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Muốn chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, quay xe diệu pháp, độ loại hữu tình, phải học Bát nhã Ba la mật đa.
Kiều Thi Ca ! Nếu các thiện nam tử, thiện nữ nhân muốn được quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề, phải học Bát nhã Ba la mật đa.
Kiều Thi Ca ! Nều các thiện nam tử, thiện nữ nhân muốn khéo an lập các loại hữu tình Thanh văn chủng tánh ở Thanh văn thừa, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Muốn khéo an lập các loại hữu tình Độc giác chủng tánh ở Độc giác thừa, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Muốn khéo an lập các loại hữu tình Đại thừa chủng tánh ở Vô thượng thừa, khiến mau chứng được sở cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, phải học Bát nhã Ba la mật đa.
Kiều Thi Ca ! Nếu các thiện nam tử, thiện nữ nhân muốn được công đức tối thắng Bạch Thế Tôn ! cõi, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Muốn dẹp tất cả bè lũ đem tối, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Muốn khéo nhiếp thọ các chúng Bí sô, phải học Bát nhã Ba la mật đa.
Bấy giờ, Thiên Đế Thích thưa Phật rằng : Bạch Thế Tôn ! Các Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa làm sao trụ sắc, làm sao trụ thọ tưởng hành thức. Làm sao trụ nhãn cho đến ý. Làm sao trụ sắc cho đến pháp. Làm sao trụ nhãn thức cho đến ý thức. Làm sao trụ Bát nhã Ba la mật đa cho đến bố thí Ba la mật đa. Làm sao trụ nội không cho đến vô tánh tự tánh không. Làm sao trụ bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi. Làm sao trụ Phật mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng ?
Bạch Thế Tôn ! Các Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa làm sao tập học sắc, làm sao tập học thọ tưởng hành thức. Cho đến làm sao tập học Phật mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng ?
Bấy giờ, Phật bảo Thiên Đế Thích rằng : Kiều Thi Ca ! Hay thay, hay thay ! Ngươi với ngày nay nương thần lực Phật năng hỏi Như Lai nghĩa sâu như thế. Lóng nghe, lóng nghe, khéo nghĩ nhớ lấy. Ta sẽ vì ngươi phân biệt giải nói.
Kiều Thi Ca ! Các Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, nếu đối sắc chẳng trụ chẳng tập, đấy là trụ tập sắc. Nếu đối thọ tưởng hành thức chẳng trụ chẳng tập, đấy là trụ tập thọ tưởng hành thức.
Nếu đối nhãn cho đến ý chẳng trụ chẳng tập, đấy là trụ tập nhãn cho đến ý. Nếu đối sắc cho đến pháp chẳng trụ chẳng tập, đấy là trụ tập sắc cho đến pháp. Nếu đối nhãn thức cho đến ý thức chẳng trụ chẳng tập, đấy là trụ tập nhãn thức cho đến ý thức.
Nếu đối bát nhã Ba la mật đa cho đến bố thí Ba la mật đa chẳng trụ chẳng tập, đấy là trụ tập bát nhã Ba la mật đa cho đến bố thí Ba la mật đa.
Nếu đối nội không cho đến vô tánh tự tánh không chẳng trụ chẳng tập, đấy là trụ tập nội không cho đến vô tánh tự tánh không.
Nếu đối bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi chẳng trụ chẳng tập, đấy là trụ tập bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi.
Nếu đối Phật mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chẳng trụ chẳng tập, đấy là trụ tập Phật mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Vì cớ sao ?
Kiều Thi Ca ! Các Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa đối sắc bất đắc khá trụ khá tập, đối thọ tưởng hành thức bất đắc khá trụ khá tập. Cho đến đối Phật mười lực bất đắc khá trụ khá tập, cho đến đối mười tám pháp Phật bất cộng bất đắc khá trụ khá tập.
Lại nữa, Kiều Thi Ca ! Các Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, nếu đối sắc phi trụ phi chẳng trụ, phi tập phi chẳng tập đấy là trụ tập sắc. Nếu đối thọ tưởng hành thức phi trụ phi chẳng trụ, phi tập phi chẳng tập, đấy là trụ tập thọ tưởng hành thức.
Nếu đối nhãn cho đến ý phi trụ phi chẳng trụ, phi tập phi chẳng tập, đấy là trụ tập nhãn cho đến ý. Nếu đối sắc cho đến pháp phi trụ phi chẳng trụ, phi tập phi chẳng tập, đấy là trụ tập sắc cho đến pháp.
Nếu đối nhãn thức cho đến ý thức phi trụ phi chẳng trụ, phi tập phi chẳng tập, đấy là trụ tập nhãn thức cho đến ý thức.
Nếu đối bát nhã Ba la mật đa cho đến bố thí Ba la mật đa phi trụ phi chẳng trụ, phi tập phi chẳng tập, đấy là trụ tập bát nhã Ba la mật đa cho đến bố thí Ba la mật đa.
Nếu đối nội không cho đến vô tánh tự tánh không phi trụ phi chẳng trụ, phi tập phi chẳng tập, đấy là trụ tập nội không cho đến vô tánh tự tánh không.
Nếu đối bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi phi trụ phi chẳng trụ, phi tập phi chẳng tập, đấy là trụ tập bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi.
Nếu đối Phật mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng phi trụ phi chẳng trụ, phi tập phi chẳng tập, đấy là trụ tập Phật mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Vì cớ sao ?
Kiều Thi Ca ! Các Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa quán sắc thời trước bất khả đắc, thời sau bất khả đắc, thời giữa bất khả đắc. Quán thọ tưởng hành thức thời trước bất khả đắc, thời sau bất khả đắc, thời giữa bất khả đắc. Cho đến quán Phật mười lực thời trước bất khả đắc, thời sau bất khả đắc, thời giữa bất khả đắc. Cho đến quán mười tám pháp Phật bất cộng thời trước bất khả đắc, thời sau bất khả đắc, thời giữa bất khả đắc vậy.
Bấy giờ, Xá Lợi Tử thưa Phật rằng : Bạch Thế Tôn ! Bát nhã Ba la mật đa như thế rất là thẳm sâu.
Phật nói : Như vậy. Xá Lợi Tử ! Sắc chơn như thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa rất là thẳm sâu, thọ tưởng hành thức chơn như thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa rất là thẳm sâu. Như vậy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chơn như thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa rất là thẳm sâu.
Khi ấy, Xá Lợi Tử lại thưa Phật rằng : Bạch Thế Tôn ! Bát nhã Ba la mật đa như thế khó nỗi so lường.
Phật nói : Như vậy. Xá Lợi Tử ! Sắc chơn như khó so lường nên Bát nhã Ba la mật đa khó nỗi so lường, thọ tưởng hành thức chơn như khó so lường nên Bát nhã Ba la mật đa khó nỗi so lường. Cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chơn như khó so lường nên Bát nhã Ba la mật đa khó nỗi so lường.
Khi ấy, Xá Lợi Tử lại thưa Phật rằng : Bạch Thế Tôn ! Bát nhã Ba la mật đa như thế rất là vô lượng.
Phật nói : Như vậy. Xá Lợi Tử ! Sắc chơn như vô lượng nên Bát nhã Ba la mật đa cũng vô lượng, thọ tưởng hành thức chơn như vô lượng nên Bát nhã Ba la mật đa cũng vô lượng. Cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chơn như vô lượng nên Bát nhã Ba la mật đa cũng vô lượng.
Xá Lợi Tử ! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng hành tánh sắc thẳm sâu là hành Bát nhã Ba la mật đa. Chẳng hành tánh thọ tưởng hành thức thẳm sâu là hành Bát nhã Ba la mật đa.
Chẳng hành tánh nhãn thẳm sâu là hành Bát nhã Ba la mật đa, cho đến chẳng hành tánh ý thẳm sâu là hành Bát nhã Ba la mật đa. Chẳng hành tánh sắc thẳm sâu là hành Bát nhã Ba la mật đa, cho đến chẳng hành tánh pháp thẳm sâu là hành Bát nhã Ba la mật đa. Chẳng hành tánh nhãn thức thẳm sâu là hành Bát nhã Ba la mật đa, cho đến chẳng hành tánh ý thức thẳm sâu là hành Bát nhã Ba la mật đa.
Chẳng hành tánh bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu là hành Bát nhã Ba la mật đa, cho đến chẳng hành tánh bố thí Ba la mật đa thẳm sâu là hành Bát nhã Ba la mật đa.
Chẳng hành tánh nội không thẳm sâu là hành Bát nhã Ba la mật đa, cho đến chẳng hành tánh vô tánh tự tánh không thẳm sâu là hành Bát nhã Ba la mật đa.
Chẳng hành tánh bốn niệm trụ thẳm sâu là hành Bát nhã Ba la mật đa, cho đến chẳng hành tánh tám thánh đạo chi thẳm sâu là hành Bát nhã Ba la mật đa.
Chẳng hành tánh Phật mười lực thẳm sâu là hành Bát nhã Ba la mật đa, cho đến chẳng hành tánh mười tám pháp Phật bất cộng thẳm sâu là hành Bát nhã Ba la mật đa. Vì cớ sao ?
Xá Lợi Tử ! Tánh sắc thẳm sâu tức chẳng phải sắc, tánh thọ tưởng hành thức thẳm sâu tức chẳng phải thọ tưởng hành thức. Cho đến tánh mười tám pháp Phật bất cộng thẳm sâu chẳng phải mười tám pháp Phật bất cộng.
Lại nữa, Xá Lợi Tử ! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa chẳng hành tánh sắc khó so lường là hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng hành tánh thọ tưởng hành thức khó so lường là hành Bát nhã Ba la mật đa.
Chẳng hành tánh nhãn khó so lường là hành Bát nhã Ba la mật đa, cho đến chẳng hành tánh ý khó so lường là hành Bát nhã Ba la mật đa.
Chẳng hành tánh sắc khó so lường là hành Bát nhã Ba la mật đa, cho đến chẳng hành tánh pháp khó so lường là hành Bát nhã Ba la mật đa.
Chẳng hành tánh nhãn thức so lường là hành Bát nhã Ba la mật đa, cho đến chẳng hành ý thức khó so lường là hành Bát nhã Ba la mật đa.
Chẳng hành tánh bát nhã Ba la mật đa khó so lường là hành Bát nhã Ba la mật đa, cho đến chẳng hành tánh bố thí Ba la mật đa khó so lường là hành Bát nhã Ba la mật đa.
Chẳng hành tánh nội không khó so lường là hành Bát nhã Ba la mật đa, cho đến chẳng hành tánh vô tánh tự tánh không khó so lường là hành Bát nhã Ba la mật đa.
Chẳng hành tánh bốn niệm trụ khó so lường là hành Bát nhã Ba la mật đa, cho đến chẳng hành tánh tám thánh đạo chi khó so lường là hành Bát nhã Ba la mật đa.
Chẳng hành tánh Phật mười lực khó so lường là hành Bát nhã Ba la mật đa, cho đến chẳng hành tánh mười tám pháp Phật bất cộng khó so lường là hành Bát nhã Ba la mật đa. Vì cớ sao ?
Xá Lợi Tử ! Tánh sắc khó so lường tức chẳng phải sắc, tánh thọ tưởng hành thức khó so lường tức chẳng phải thọ tưởng hành thức. Cho đến tánh mười tám pháp Phật bất cộng khó so lường tức chẳng phải mười tám pháp Phật bất cộng.
Lại nữa, Xá Lợi Tử ! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng hành tánh sắc vô lượng là hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng hành tánh thọ tưởng hành thức vô lượng là hành Bát nhã Ba la mật đa.
Chẳng hành tánh nhãn vô lượng là hành Bát nhã Ba la mật đa, cho đến chẳng hành tánh ý vô lượng là hành Bát nhã Ba la mật đa.
Chẳng hành tánh sắc vô lượng là hành Bát nhã Ba la mật đa, cho đến chẳng hành tánh pháp vô lượng là hành Bát nhã Ba la mật đa.
Chẳng hành tánh nhãn thức vô lượng là hành Bát nhã Ba la mật đa, cho đến chẳng hành tánh ý thức vô lượng là hành Bát nhã Ba la mật đa.
Chẳng hành tánh bát nhã Ba la mật đa vô lượng là hành Bát nhã Ba la mật đa, cho đến chẳng hành tánh bố thí Ba la mật đa vô lượng là hành Bát nhã Ba la mật đa.
Chẳng hành tánh nội không vô lượng là hành Bát nhã Ba la mật đa, cho đến chẳng hành tánh vô tánh tự tánh không vô lượng là hành Bát nhã Ba la mật đa.
Chẳng hành tánh bốn niệm trụ vô lượng là hành Bát nhã Ba la mật đa, cho đến chẳng hành tánh tám thánh đạo chi vô lượng là hành Bát nhã Ba la mật đa.
Chẳng hành tánh Phật mười lực vô lượng là hành Bát nhã Ba la mật đa, cho đến chẳng hành tánh mười tám pháp Phật bất cộng vô lượng là hành Bát nhã Ba la mật đa. Vì cớ sao ?
Xá Lợi Tử ! Tánh sắc vô lượng tức chẳng phải sắc, tánh thọ tưởng hành thức vô lượng tức chẳng phải thọ tưởng hành thức. Cho đến tánh mười tám pháp Phật bất cộng vô lượng tức chẳng phải mười tám pháp Phật bất cộng vậy.
Bấy giờ, Xá Lợi Tử thưa Phật rằng : Bạch Thế Tôn ! Bát nhã Ba la mật đa như thế đã rất thẳm sâu khó lường, vô lượng, khó nỗi tin hiểu, chẳng nên ở trước Bồ tát mới học Đại thừa kia mà thuyết, vì e kia nghe Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu đây tâm họ kinh hoàng run sợ do dự chẳng tin hiểu được. Chỉ nên thuyết ở trước Bồ tát ngôi Bất thối chuyển, kia nghe Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu như thế tâm chẳng kinh hoàng, chẳng run chẳng sợ, cũng chẳng do dự. Nghe rồi tin hiểu, thọ trì đọc tụng, suy nghĩ đúng lý, vì người diễn nói.
Bấy giờ, Thiên Đế Thích hỏi Xá Lợi Tử rằng : Bạch Đại đức ! Nếu có ở trước Bồ tát mới học Đại thừa kia thuyết Bát nhã Ba la mật đa như thế có lầm lỗi nào ?
Xá Lợi Tử nói : Kiều Thi Ca ! Nếu có ở trước Bồ tát mới học Đại thừa kia thuyết Bát nhã Ba la mật đa như thế, kia nghe kinh hoàng run sợ do dự, chẳng tin hiểu được hoặc sanh hủy báng. Do đấy gây nên tăng trưởng nghiệp năng cảm đọa ác thú, chìm ba ác thú ở lâu sanh tử, khó chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Vậy nên kẻ trí chẳng nên ở trước Bồ tát mới học Đại thừa kia thuyết Bát nhã Ba la mật đa như thế.
Khi ấy, Thiên Đế Thích lại hỏi cụ thọ Xá Lợi Tử rằng : Bạch Đại đức ! Vả có Bồ tát chưa nhận biệt ký Vô thượng Đại Bồ đề, nghe thuyết Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu như thế chẳng kinh hoàng chẳng run chẳng sợ chẳng do dự chăng ?
Xá Lợi Tử đáp : Có. Kiều Thi Ca ! Bồ tát Ma ha tát này chẳng lâu sẽ nhận ký Đại Bồ đề.
Kiều Thi Ca ! Nếu Bồ tát Ma ha tát nghe thuyết Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu như thế, tâm chẳng kinh hoàng, chẳng run chẳng sợ, cũng chẳng do dự. Phải biết Bồ tát Ma ha tát này đã nhận ký Vô thượng Đại Bồ đề. Nếu kẻ chưa nhận, ở chỗ chẳng hơn một Phật hoặc hai Phật quyết định sẽ được nhận ký Đại Bồ đề. Hoặc chẳng phải vậy, nghe thuyết Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu như thế, tâm quyết định kinh hoàng run sợ do dự.
Bấy giờ, Phật bảo Xá Lợi Tử rằng : Như vậy, như vậy. Như ngươi đã nói. Xá Lợi Tử ! Nếu Bồ tát Ma ha tát lâu học Đại thừa, lâu phát đại nguyện, lâu tu sáu thứ Ba la mật đa và vô lượng vô biên Phật pháp khác, lâu ở chỗ vô lượng vô biên Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen, lâu thờ vô lượng vô biên bạn lành. Do nhân duyên này, nghe thuyết Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu như thế, tâm chẳng kinh hoàng, chẳng run sợ, cũng chẳng do dự. Nghe rồi tin hiểu thọ trì đọc tụng, suy nghĩ đúng lý, vì người diễn nói, hoặc năng thơ tả, như nói tu hành.
Bấy giờ, Xá Lợi Tử thưa Phật rằng : Bạch Thế Tôn ! Tôi nay muốn nói một ít ví dụ các Bồ tát Ma ha tát, cúi xin Thế Tôn thương xót hứ cho !
Phật bảo : Xá Lợi Tử ! Muốn nói thì nói, tùy ý ngươi nói.
Xá Lợi Tử nói : Bạch Thế Tôn ! Như các thiện nam tử, thiện nữ nhân trụ Bồ tát thừa, trong mộng tu hành bát nhã, tĩnh lự, tinh tiến, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật đa. An trụ nội không cho đến vô tánh tự tánh không. Tu hành bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi. Tu hành Phật mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Tu hành nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí. Tới cội Bồ đề, cho đến ngồi yên tòa diệu Bồ đề.
Phải biết các thiện nam tử, thiện nữ nhân này hãy gần Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Huống có Bồ tát Ma ha tát vì cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề tu hành bát nhã, tĩnh lự, tinh tiến, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật đa. An trụ nội không cho đến vô tánh tự tánh không. Tu hành bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi. Tu hành Phật mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Tu hành nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí, mà chẳng mau chứng sở cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề ?
Bạch Thế Tôn ! Phải biết Bồ tát Ma ha tát này chẳng lâu sẽ tới dưới cội Bồ đề, chẳng lâu sẽ ngồi tòa diệu Bồ đề, chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, quay xe diệu pháp lợi vui tất cả.
Bạch Thế Tôn ! Nếu các thiện nam tử, thiện nữ nhân được nghe Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu như thế, thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu học, suy nghĩ đúng lý. Phải biết các thiện nam tử, thiện nữ nhân này đã lâu học Đại thừa, căn lành thành thục, cúng dường chư Phật, thờ nhiều bạn lành, trồng nhiều cội đức, mới năng thành việc này.
Bạch Thế Tôn ! Nếu các thiện nam tử, thiện nữ nhân được nghe Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu như thế, tin hiểu thọ trì, đọc tụng tu tập, suy nghĩ đúng lý, vì người diễn nói. Các thiện nam tử, thiện nữ nhân này hoặc đã được nhận ký Đại Bồ đề, hoặc gần sẽ nhận ký Đại Bồ đề.
Bạch Thế Tôn ! Các thiện nam tử, thiện nữ nhân này như trụ ngôi Bồ tát Ma ha tát Bất thối, mau được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Do nhờ đấy được nghe Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, năng thâm tin hiểu, thọ trì đọc tụng, suy nghĩ đúng lý, theo dạy tu hành, vì người diễn nói.
Bạch Thế Tôn ! Ví như có người dại đi đồng nội trải qua đường hiểm một trăm do tuần, hoặc hai, hoặc ba, hoặc bốn năm trăm, trước thấy các tướng của thành ấp vương đô, nghĩa là người thả trâu, vười rừng thảy. Thấy các tướng rồi, bèn khởi nghĩ này : Thành ấp vương đô cách đây chẳng xa. Khởi nghĩ đấy rồi, thân tâm thư thái, chẳng sợ ác thú, ác tặc, đói khát.
Bạch Thế Tôn ! Các Bồ tát Ma ha tát cũng lại như thế, nếu được nghe Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu đây thọ trì đọc tụng, suy nghĩ đúng lý, rất sanh tin hiểu. Phải biết chẳng lâu sẽ được nhân lý, hoặc đã được nhận, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Bồ tát Ma ha tát này không sợ đọa bậc Thanh văn, Độc giác. Vì cớ sao ?
Bạch Thế Tôn ! Bồ tát Ma ha tát này đã được thấy nghe, cúng dường cung kính Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu tướng trước Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề vậy.
Bấy giờ, Phật bảo Xá Lợi Tử rằng : Như vậy, như vậy. Như ngươi đã nói. Ngươi nhờ Phật lực nên nói nữa đi.
Khi ấy, Xá Lợi Tử lại thưa Phật rằng : Bạch Thế Tôn ! Ví như có người muốn xem biển cả, đi lần hồi tới trải đã nhiều thời, chẳng thấy núi rừng, bàn khởi nghĩ này : Nay xem tướng đây, biển cả chẳng xa. Sở dĩ vì sao ? Vì gần bờ biển đất phải thấp dần, tất không núi rừng. Người kia bấy giờ, dù chưa thấy biển mà thấy tướng gần, vui mừng nhảy nhót, ta mau chắc sẽ được thấy biển cả.
Bạch Thế Tôn ! Các Bồ tát Ma ha tát cũng lại như thế, nếu được nghe Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu đây, thọ trì đọc tụng, suy nghĩ đúng lý, rất sanh tin hiểu. Bồ tát Ma ha tát này dù chưa được Phật hiện tiền trao ký : Ngươi ở đời sau, trải chừng mấy kiếp, hoặc trải trăm kiếp, hoặc trải ngàn kiếp, hoặc trải trăm ngàn kiếp, cho đến hoặc trải trăm ngàn trăm ức muôn ức kiếp, sẽ được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề; mà lẽ tự biết nhận ký chẳng xa. Vì cớ sao ?
Bạch Thế Tôn ! Bồ tát Ma ha tát này đã được thấy nghe, cung kính cúng dường, thọ trì đọc tụng, suy nghĩ đúng lý Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu tướng trước Vô thượng Bồ đề vậy.
Bạch Thế Tôn ! Ví như mùa xuân, hoa quả cây thảy lá cũ đã rụng, nhánh nhóc thêm nhuận, nhiều người thấy rồi, đều khởi nói rằng : Hoa quả lá mới sẽ ra chẳng lâu. Sở dĩ vì sao ? Các cây thảy đây trước hiện tướng hoa quả lá mới vậy. Người châu Thiệm bộ nam nữ lớn nhỏ, thấy tướng đây rồi, vui mừng nhảy nhót, đều nói lời này : Chẳng lâu chúng ta sẽ được thấy hoa quả thịnh mậu đây.
Bạch Thế Tôn ! Các Bồ tát Ma ha tát cũng lại như thế. Nếu được nghe Bát nhã Ba la mật đa đây, thọ trì đọc tụng, suy nghĩ đúng lý, rất sanh tin hiểu, cung kính cúng dường. Phải biết căn lành đời trước thành thục, cúng dường nhiều Phật, thờ nhiều bạn lành, chẳng lâu sẽ nhận ký Vô thượng Chánh đẳng Đại Bồ đề.
Bạch Thế Tôn ! Bồ tát Ma ha tát này nên khởi nghĩ đây : Ta trước chắc có thắng lực căn lành năng dẫn Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, nên nay thấy nghe cung kính cúng dường Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, thọ trì đọc tụng, rất sanh tin hiểu, suy nghĩ đúng lý, theo sức tu tập.
Bạch Thế Tôn ! Nay trong hội đây có các Thiên tử thấy Phật quá khứ thuyết pháp này đây đầu sanh vui mừng, đều đồng nghĩ rằng : Xưa các Bồ tát nghe thuyết Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu như thế bèn được nhận ký. Nay các Bồ tát đã nghe thuyết Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu đây, chẳng lâu chắc sẽ nhận ký Bồ đề.
Bạch Thế Tôn ! Ví như người nữ mang thai đã lâu, thân ngày càng nặng, động ngưng chẳng yên, ăn uống ngủ nghĩ, thở đều giảm ít, buồn chẳng nhiều lời, chán việc thường làm, vì chịu đau khổ vậy, nên nhiều việc phế bỏ. Có bà di mẫu thấy tướng đây rồi, liền biết nàng này chẳng lâu sinh đẻ.
Bạch Thế Tôn ! Các Bồ tát Ma ha tát cũng lại như thế, trước trồng căn lành, cúng dường nhiều Phật, thờ nhiều bạn lành, căn lành thành thục, nên nay được nghe Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu đây, thọ trì đọc tụng, suy nghĩ đúng lý, rất sanh tin hiểu, theo sức tu tập.
Bạch Thế Tôn ! Phải biết Bồ tát Ma ha tát này do nhân duyên đây, chẳng lâu được nhận ký Vô thượng Chánh đẳng Đại Bồ đề.
Bấy giờ, Phật khen Xá Lợi Tử rằng : Hay thay, hay thay ! Ngươi giỏi năng thuyết ví dụ Bồ tát được nghe Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu như thế, thọ trì đọc tụng, suy nghĩ đúng lý, rất sanh tin hiểu. Phải biết đều là Phật lực oai thần khiến ngươi dẫn phát biện tài như thế.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng : Bạch Thế Tôn ! Rất lạ. Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khéo năng nhiếp thọ các Bồ tát Ma ha tát, khéo năng phó chúc các Bồ tát Ma ha tát.
Phật bảo : Thiện Hiện ! Như vậy, như vậy. Như ngươi đã nói. Vì cớ sao ? Thiện Hiện ! Các Bồ tát Ma ha tát cầu tới Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề vì nhiều hữu tình được lợi vui vậy, thương xót nhiêu ích các trời người vậy. Các chúng Bồ tát Ma ha tát này khi tinh siêng tu học hạnh Bồ tát, vì muốn nhiêu ích vô lượng trăm ngàn các loại hữu tình, vì muốn nhiếp thọ vô lượng trăm ngàn các Bồ tát nên dùng bốn nhiếp sự mà nhiếp thọ đó. Những gì là bốn ? Một là bố thí, hai là ái ngữ, Bạch Thế Tôn ! là lợi hành, bốn là đồng sự.
Bồ tát Ma ha tát này tự chính an trụ mười thiện nghiệp đạo, cũng an lập người khiến siêng tu học mười thiện nghiệp đạo. Tự vào sơ tĩnh lự cho đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Tự hành bố thí, cũng dạy người hành bố thí. Tự hành tịnh giới, cũng dạy người hành tịnh giới. Tự hành an nhẫn, cũng dạy người hành an nhẫn. Tự hành tinh tiến, cũng dạy người hành tinh tiến. Tự hành tĩnh lự, cũng dạy người hành tĩnh lự. Tự hành bát nhã, cũng dạy người hành bát nhã.
Bồ tát Ma ha tát này nương dựa Bát nhã Ba la mật đa phương tiện khéo léo, tuy dạy hữu tình chứng quả Dự lưu mà chẳng tự chứng. Tuy dạy hữu tình chứng quả Nhất lai mà chẳng tự chứng. Tuy dạy hữu tình chứng quả Bất hoàn mà chẳng tự chứng. Tuy dạy hữu tình chứng quả A la hán mà chẳng tự chứng. Tuy dạy hữu tình chứng Độc giác Bồ đề mà chẳng tự chứng.
Bồ tát Ma ha tát này tự tu bố thí Ba la mật đa cho đến bát nhã Ba la mật đa, cũng khuyên vô lượng trăm ngàn Bồ tát tu hành bố thí Ba la mật đa cho đến bát nhã Ba la mật đa. Tự trụ bật Bồ tát Bất thối chuyển, cũng khuyên vô lượng trăm ngàn Bồ tát khiến trụ bậc Bồ tát Bất thối chuyển. Tự siêng tinh tiến nghiêm tịnh cõi Phật, cũng khuyên vô lượng trăm ngàn Bồ tát khiến siêng tinh tiến nghiêm tịnh cõi Phật. Tự siêng tinh tiến thành thục hữu tình, cũng khuyên vô lượng trăm ngàn Bồ tát khiến siêng tinh tiến thành thục hữu tình. Tự siêng phát khởi Bồ tát thần thông, cũng khuyên vô lượng trăm ngàn Bồ tát khiến siêng phát khởi Bồ tát thần thông. Tự siêng nghiêm tịnh đà la ni môn, cũng khuyên vô lượng trăm ngàn Bồ tát khiến siêng nghiêm tịnh đà la ni môn. Tự siêng nghiêm tịnh tam ma địa môn, cũng khuyên vô lượng trăm ngàn Bồ tát khiến siêng nghiêm tịnh tam ma địa môn. Tự năng chứng được viên mãn biện tài, cũng khuyên vô lượng trăm ngàn Bồ tát khiến kia chứng được viên mãn biện tài.
Tự năng nhiếp thọ viên mãn sắc thân, cũng khuyên vô lượng trăm ngàn Bồ tát khiến năng nhiếp thọ viên mãn sắc thân. Tự năng nhiếp thọ viên mãn tướng hảo, cũng khuyên vô lượng trăm ngàn Bồ tát khiến năng nhiếp thọ viên mãn tướng hảo. Tự năng nhiếp thọ viên mãn bậc đồng chơn, cũng khuyên vô lượng trăm ngàn Bồ tát cũng năng nhiếp thọ viên mãn bậc đồng chơn.
Bồ tát Ma ha tát này tự tu bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi, cũng khuyên kia tu bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi. Tự trụ nội không cho đến vô tánh tự tánh không, cũng khuyên kia trụ nội không cho đến vô tánh tự tánh không. Tự tu Phật mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, cũng khuyên kia tu Phật mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Tự tu nhất thiết trí, cũng khuyên kia tu nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí. Tự dứt tất cả tập khí phiền não nối nhau, cũng khuyên kia dứt tất cả tập khí phiền não nối nhau. Tự chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề quay xe diệu pháp lợi vui tất cả, cũng khuyên kia chứng sở cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề làm sự nghiệp này.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng : Thế Tôn rất lạ ! Thiện Thệ hiếm có ! Bồ tát Ma ha tát này trọn nên nhóm đại công đức như thế, vì muốn nhiêu ích tất cả hữu tình, tu hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu như thế, cầu chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, quay xe diệu pháp lợi vui tất cả. Bạch Thế Tôn ! Bồ tát Ma ha tát tu hành Bát nhã Ba la mật đa làm sao cho mau viên mãn ?
Phật bảo : Thiện Hiện ! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng thấy sắc hoặc tăng hoặc giảm, chẳng thấy thọ tưởng hành thức hoặc tăng hoặc giảm. Chẳng thấy nhãn xứ hoặc tăng hoặc giảm, chẳng thấy nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ hoặc tăng hoặc giảm. Chẳng thấy sắc xứ hoặc tăng hoặc giảm, chẳng thấy thanh hương vị xúc pháp xứ hoặc tăng hoặc giảm. Chẳng thấy nhãn giới hoặc tăng hoặc giảm, chẳng thấy nhĩ tỷ thiệt thân ý giới hoặc tăng hoặc giảm.
Chẳng thấy sắc giới hoặc tăng hoặc giảm, chẳng thấy thanh hương vị xúc pháp giới hoặc tăng hoặc giảm, chẳng thấy nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới hoặc tăng hoặc giảm. Chẳng thấy nhãn xúc hoặc tăng hoặc giảm, chẳng thấy nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc hoặc tăng hoặc giảm. Chẳng thấy nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc tăng hoặc giảm, chẳng thấy nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc tăng hoặc giảm.
Chẳng thấy bố thí Ba la mật đa hoặc tăng hoặc giảm; chẳng thấy tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa hoặc tăng hoặc giảm.
Chẳng thấy nội không hoặc tăng hoặc giảm; chẳng thấy ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán vô tán không, bổn tánh không, tự cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không hoặc tăng hoặc giảm.
Chẳng thấy bốn niệm trụ hoặc tăng hoặc giảm; chẳng thấy bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi hoặc tăng hoặc giảm.
Cho đến chẳng thấy Phật mười lực hoặc tăng hoặc giảm; chẳng thấy bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi hoặc tăng hoặc giảm.
Cho đến chẳng thấy Phật mười lực hoặc tăng hoặc giảm; chẳng thấy bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc tăng hoặc giảm.
Chẳng thấy tất cả đà la ni môn hoặc tăng hoặc giảm, chẳng thấy tất cả tam ma địa môn hoặc tăng hoặc giảm. Chẳng thấy nhất thiết trí hoặc tăng hoặc giảm; chẳng thấy đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí hoặc tăng hoặc giảm. Bồ tát Ma ha tát này tu hành Bát nhã Ba la mật đa mau được viên mãn.
Lại nữa, Thiện Hiện ! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa chẳng thấy đây pháp, chẳng thấy đây phi pháp. Chẳng thấy đây quá khứ, chẳng thấy đây vị lai, chẳng thấy đây hiện tại. Chẳng thấy đây thiện, chẳng thấy đây phi thiện. Chẳng thấy đây hữu ký, chẳng thấy đây vô ký. Chẳng thấy đây hữu vi, chẳng thấy đây vô vi.
Chẳng thấy đây cõi Dục, chẳng thấy đây cõi Sắc, chẳng thấy đây cõi Vô sắc. Chẳng thấy đây bố thí Ba la mật đa, cho đến chẳng thấy đây bát nhã Ba la mật đa. Chẳng thấy đây nội không, cho đến chẳng thấy đây vô tánh tự tánh không. Chẳng thấy đây bốn niệm trụ, cho đến chẳng thấy đây tám thánh đạo chi.
Như vậy cho đến chẳng thấy đây Như Lai mười lực, cho đến chẳng thấy đây mười tám pháp Phật bất cộng. Chẳng thấy đây tất cả đà la ni môn, chẳng thấy đây tất cả tam ma địa môn. Chẳng thấy đây nhất thiết trí, chẳng thấy đây đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí. Bồ tát Ma ha tát này tu hành Bát nhã Ba la mật đa mau được viên mãn. Vì cớ sao ?
Thiện Hiện ! Vì tất cả pháp không tánh tướng, vì không tác dụng, vì chẳng thể chuyển, vì hư dối lừa gạt chẳng bền chắc, chẳng tự tại, vì không giác thọ, vì lìa ngã, hữu tình, mạng giả, sanh giả, nói rộng cho đến tri kiến giả vậy.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng : Bạch Thế Tôn ! Như Lai đã thuyết chẳng thể nghĩ bàn.
Phật bảo : Thiện Hiện ! Như vậy, như vậy. Như ngươi đã nói. Như Lai đã thuyết chẳng thể nghĩ bàn.
Thiện Hiện ! Sắc chẳng thể nghĩ bàn nên Như Lai đã thuyết chẳng thể nghĩ bàn, thọ tưởng hành thức chẳng thể nghĩ bàn nên Như Lai đã thuyết chẳng thể nghĩ bàn.
Nhãn xứ chẳng thể nghĩ bàn nên Như Lai đã thuyết chẳng thể nghĩ bàn, nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ chẳng thể nghĩ bàn nên Như Lai đã thuyết chẳng thể nghĩ bàn.
Sắc xứ chẳng thể nghĩ bàn nên Như Lai đã thuyết chẳng thể nghĩ bàn, thanh hương vị xúc pháp xứ chẳng thể nghĩ bàn nên Như Lai đã thuyết chẳng thể nghĩ bàn.
Nhãn giới chẳng thể nghĩ bàn nên Như Lai đã thuyết chẳng thể nghĩ bàn, nhĩ tỷ thiệt thân ý giới chẳng thể nghĩ bàn nên Như Lai đã thuyết chẳng thể nghĩ bàn.
Sắc giới chẳng thể nghĩ bàn nên Như Lai đã thuyết chẳng thể nghĩ bàn, thanh hương vị xúc pháp giới chẳng thể nghĩ bàn nên Như Lai đã thuyết chẳng thể nghĩ bàn.
Nhãn thức giới chẳng thể nghĩ bàn nên Như Lai đã thuyết chẳng thể nghĩ bàn, nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới chẳng thể nghĩ bàn nên Như Lai đã thuyết chẳng thể nghĩ bàn.
Nhãn xúc chẳng thể nghĩ bàn nên Như Lai đã thuyết chẳng thể nghĩ bàn, nhĩ tỷ thiện thân ý xúc chẳng thể nghĩ bàn nên Như Lai đã thuyết chẳng thể nghĩ bàn.
Nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng thể nghĩ bàn nên Như Lai đã thuyết chẳng thể nghĩ bàn, nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng thể nghĩ bàn nên Như Lai đã thuyết chẳng thể nghĩ bàn.
Bố thí Ba la mật đa chẳng thể nghĩ bàn nên Như Lai đã thuyết chẳng thể nghĩ bàn, cho đến bát nhã Ba la mật đa chẳng thể nghĩ bàn nên Như Lai đã thuyết chẳng thể nghĩ bàn.
Nội không chẳng thể nghĩ bàn nên Như Lai đã thuyết chẳng thể nghĩ bàn, cho đến vô tánh tự tánh không chẳng thể nghĩ bàn nên Như Lai đã thuyết chẳng thể nghĩ bàn.
Bốn niệm trụ chẳng thể nghĩ bàn nên Như Lai đã thuyết chẳng thể nghĩ bàn, cho đến tám thánh đạo chi chẳng thể nghĩ bàn nên Như Lai đã thuyết chẳng thể nghĩ bàn.
Như vậy cho đến Phật mười lực chẳng thể nghĩ bàn nên Như Lai đã thuyết chẳng thể nghĩ bàn, cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chẳng thể nghĩ bàn nên Như Lai đã thuyết chẳng thể nghĩ bàn.
Tất cả đà la ni môn chẳng thể nghĩ bàn nên Như Lai đã thuyết chẳng thể nghĩ bàn, tất cả tam ma địa môn chẳng thể nghĩ bàn nên Như Lai đã thuyết chẳng thể nghĩ bàn.
Nhất thiết trí chẳng thể nghĩ bàn nên Như Lai đã thuyết chẳng thể nghĩ bàn; đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí chẳng thể nghĩ bàn nên Như Lai đã thuyết chẳng thể nghĩ bàn.
Thiện Hiện ! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, như thật biết rõ sắc là chẳng thể nghĩ bàn, thọ tưởng hành thức là chẳng thể nghĩ bàn. Cho đến nhất thiết trí là chẳng thể nghĩ bàn; đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí là chẳng thể nghĩ bàn. Bồ tát Ma ha tát này tu hành Bát nhã Ba la mật đa mau được viên mãn.
Lại nữa, Thiện Hiện ! Nếu Bát nhã Ba la mật đa khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đối sắc chẳng khởi tưởng hoặc thể nghĩ bàn hoặc chẳng thể nghĩ bàn, đối thọ tưởng hành thức chẳng khởi tưởng hoặc thể nghĩ bàn hoặc chẳng thể nghĩ bàn.
Đối nhãn xứ chẳng khởi tưởng hoặc thể nghĩ bàn hoặc chẳng thể nghĩ bàn, đối nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ chẳng khởi tưởng hoặc thể nghĩ bàn hoặc chẳng thể nghĩ bàn.
Đối sắc xứ chẳng khởi tưởng hoặc thể nghĩ bàn hoặc chẳng thể nghĩ bàn, đối thanh hương vị xúc pháp xứ chẳng khởi tưởng hoặc thể nghĩ bàn hoặc chẳng thể nghĩ bàn.
Đối nhãn giới chẳng khởi tưởng hoặc thể nghĩ bàn hoặc chẳng thể nghĩ bàn, đối nhĩ tỷ thiệt thân ý giới chẳng khởi tưởng hoặc thể nghĩ bàn hoặc chẳng thể nghĩ bàn.
Đối sắc giới chẳng khởi tưởng hoặc thể nghĩ bàn hoặc chẳng thể nghĩ bàn, đối thanh hương vị xúc pháp giới chẳng khởi tưởng hoặc thể nghĩ bàn hoặc chẳng thể nghĩ bàn.
Đối nhãn thức chẳng khởi tưởng hoặc thể nghĩ bàn hoặc chẳng thể nghĩ bàn, đối nhĩ tỷ thiệt thân ý giới chẳng khởi tưởng hoặc thể nghĩ bàn hoặc chẳng thể nghĩ bàn.
Đối nhãn xúc chẳng khởi tưởng hoặc thể nghĩ bàn hoặc chẳng thể nghĩ bàn, đối nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc chẳng khởi tưởng hoặc thể nghĩ bàn hoặc chẳng thể nghĩ bàn.
Đối nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng khởi tưởng hoặc thể nghĩ bàn hoặc chẳng thể nghĩ bàn, đối nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng khởi tưởng hoặc thể nghĩ bàn hoặc chẳng thể nghĩ bàn.
Đối bố thí Ba la mật đa chẳng khởi tưởng hoặc thể nghĩ bàn hoặc chẳng thể nghĩ bàn, cho đến đối bát nhã Ba la mật đa chẳng khởi tưởng hoặc thể nghĩ bàn hoặc chẳng thể nghĩ bàn.
Đối nội không chẳng khởi tưởng hoặc thể nghĩ bàn hoặc chẳng thể nghĩ bàn, cho đến đối vô tánh tự tánh không chẳng khởi tưởng hoặc thể nghĩ bàn hoặc chẳng thể nghĩ bàn.
Đối bốn niệm trụ chẳng khởi tưởng hoặc thể nghĩ bàn hoặc chẳng thể nghĩ bàn, cho đến đối tám thánh đạo chi chẳng khởi tưởng hoặc thể nghĩ bàn hoặc chẳng thể nghĩ bàn.
Như vậy cho đến đối Phật mười lực chẳng khởi tưởng hoặc thể nghĩ bàn hoặc chẳng thể nghĩ bàn, cho đến đối mười tám pháp Phật bất cộng chẳng khởi tưởng hoặc thể nghĩ bàn hoặc chẳng thể nghĩ bàn.
Đối tất cả đà la ni môn chẳng khởi tưởng hoặc thể nghĩ bàn hoặc chẳng thể nghĩ bàn, đối tất cả tam ma địa môn chẳng khởi tưởng hoặc thể nghĩ bàn hoặc chẳng thể nghĩ bàn.
Đối nhất thiết trí chẳng khởi tưởng hoặc thể nghĩ bàn hoặc chẳng thể nghĩ bàn; đối đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí chẳng khởi tưởng hoặc thể nghĩ bàn hoặc chẳng thể nghĩ bàn. Bồ tát Ma ha tát này tu hành Bát nhã Ba la mật đa mau được viên mãn.