- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa (24 tập)
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 2
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 3
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 4
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 5
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 6
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 7
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 8
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 9
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 10
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 11
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 12
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 13
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 14
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 15
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 16
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 17
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 18
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 19
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 20
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 21
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 22
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 23
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 24
- Tiểu sử dịch giả HT Thích Trí Nghiêm
Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 15
Quyển Thứ 363: Hội thứ nhất Phẩm Hỏi Nhiều Chẳng Hai thứ 61 - 13
Nguồn: Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm
Cụ thọ thiện hiện lại thưa phật rằng: bạch thế tôn! Vì trụ thắng nghĩa chứng được vô thượng chánh đẳng bồ đề ư ? chẳng phải, thiện hiện. Bạch tế t ôn! Vì trụ điên đảo chứng được vô thượng chánh đẳng bồ đề ư? Chẳng phải, thiện hiện.
Bạch thế tôn! Nếu chẳg trụ thắng nghĩa chứng được vô thượng chánh đẳng bồ đề, cũng chẳng trụ điên đảo chứng được vô thượng chánh đẳng bồ đề ấy, lẽ không có thế tôn chẳng chứng vô thượng chánh đẳng bồ đề ư? Chẳng phải, thiện hiện! Ta dù chứng được vô thượng chánh đẳng bồ đề, nhưng chẳng trụ hữu vigiới, cũng chẳng trụ vô vi giới.
Thiện hiện! Nhu kẻ được các như lai biến hóa dù chẳng trụ hữu vi giới, cũng chẳng trụ vô vi giới, nhưng vẫn co đi lại ngồi đứng các việc.
Thiện hiện! Kẻ sở hóa này, hoặc hành bố thí ba la mật đa; cũng hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã ba la mật đa.
Kẻ sở hóanày hoặc trụ nọâi không; cũng trụ ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hũu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô bìến dị không, bổn tánh không, tự tưóng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đác không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không.
Kẻ sở hóa nàyhoặc trụ chơn như; cũng trụ pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp đinh, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bấ tư nghì giới.
Kẻ sở hóa này hoặc tu bốn niệm trụ; cũng tu bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi. Kẻ sở hóa này hoặc trụ khổ thánh đế, cũng trụ tập diệt đạo thánh đế. Kẻ sở hóa này hoặc tu bốn tĩnh lự; cũng tu bốn vô lượng, bốn vô sắc định.
Kẻ sở hóa này hoặc tu tám giải thoát; cũng tu tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ. Kẻ sở hóa này hoặc tu tất cả tam ma địa môn, cũng tu tất cả đà la ni môn. Kẻ sở hóa này hoặc tu không giải thoát môn; cũng tu vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Ke sở hóa này hoặc tu năm nhãn, cũng tu sáu thần thông.
Kẻ sở hóa này hoặc tu phật mười lực; cũng tu bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp phật bất cộng. Kẻ sở hóa này hoặc tu pháp vô vong thất, cũng tu tánh hằng trụ xả. Kẻ sở hóa này hoặc tu nhất thiết trí; cũng tu đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí. Kẻ sở hóa này hoặc chứng vô thượng chánh đẳng bồ đề, quay xe diệu pháp làm các phật sự. Kẻ sỏ hóa này lại chuyển hóa làm vô lượng hữu tình, với trong ấy kiến lập ba nhóm chánh tánh định thảy sai khác.
Thiện hiện! Nơi ý người hiểu sao? Kẻ được các như lai biến hóa này là thật có đi lại, cho đến hằng trụ tu chứng vô thượng chánh đẳng bồ đề quay xe diệu pháp, làm các phật sự, an lập ba nhóm có sai khác chăng? Thiện hiện thưa rằng: bạch thế tôn! Chẳng thật có. Bạch thiện thệ!chẳng thật có. Phật nói: thiện hiện! Như lai cũng vậy, biết tất cả pháp đều như biến hóa, thuyết tất cả pháp đều như biến hóa; dù có sở tác mà không chơn thật, dù độ hữu tình mà không sở độ, như kẻ sở hóa độ hữu tình. Như vậy, thiện hiện! Bồ tát ma ha tát tu hành bát nhã ba la mật đa, nên biết là kẻ sở biến hóa của chư phật, tuy có sở vi mà không chấp đắm.
Cụ thọ thiện hiện thưa phật rằng: bạch thế tôn! Nếu tất cả pháp đều như biến hóa, nhưlai cũng vậy. Phật cùng hóa nhân có sai khác chi? Phật nói: thiện hiện! Phật cùng hóa nhân và tất cả pháp ngang không sai khác. Vì cớ sao? Thiện hiện! Phật sở tác sự nghiệp người do phật hóa cũng năng tác được vậy. Thiện hiện thưa rằng: nếu không có phật, người do phật hóa năng tác được sự chăng? Phật nói: năng tác được.
Thiện hiện thưa rằng: việc ấy thế nào? Phật nói: thiện hiện! Như đời quá khứ có một như lai ứng chánh đẳng giác quý danh thiện tịch huệ, kẻ tự đáng độ đều đã độ xong. Bấy giờ không có bồ tát kham nhận phật ký, bèn hóa làm một phật, khiến trụ thế gian, tự vào cõi vô dư y đại niết bàn. Khi hóa phật ở trong nửa kiếp làm các phật sự. Qua nửa kiếp rồi trao ký cho một bồ tát ma ha tát, hiện vào niết bàn. Bấy giờ trời, người, a tố lạc thảy, đều bảo phật kia nay vào niết bàn, nhưng thân hóa phật thật không khởi diệt. Như vậy, thiện hiện! Bồ tát ma ha tát tu hành bát nhã ba la mật đa nên tin các pháp đều như biến hóa.
Cụ thọ thiện hiện thưa phật rằng: bạch thế tôn! Nếu thân như lai cùng hóa không khác, làm sao năng tác chơn tịnh phước điền. Nếu các hữu tình vì giải thoát ở chỗ như lai cung kính cúng dường, phước ấy vô tận. Cho đến rốt sao vào cõi vô dư y niết bàn. Như vậy, nếu có vì giải thoát nên cúng dường hóa phật, chỗ được nhóm phước cũng sẽ vô tận. Cho đến rốt sau vào cõi vô dư y niết bàn.
Phật nói: thiện hiện! Như thân như lai do pháp tánh nên năng làm tịnh phước điền cho trời, người, a tố lạc thảy; hóa phật cũng vậy, do pháp tánh nên năng làm tịnh như lai thọ người cúng dường, khiến thí chủ kia hết ng82n sanh tử, phước ấy vô tận. Như vậy, hóa phật thọ người cúng dường cũng khiến thí chủ hết ngằn sanh tử, phước ấy vô tận.
Thiện hiện! Vả thôi cúng dường như lai và cùng hóa phật, chỗ được nhóm phước. Nếu các thiện nam tử, thiện nữ nhân ở chỗ như lai khởi lòng từ kính, suy nghĩ nhớ niệm. Các thiện nam tử, thiện nữ nhân này căn lành vô tận, cho đến rốt sau làm ngằn mé khổ.
Thiện hiện! Lại thôi đem lòng từ kính nhớ nghĩ như lai chỗ được nhóm phước. Nếu các thiện nam tử, thiện nữ nhân vì cúng dường phật, tối thiểu một hoa dùng rải hư không. Các thiện nam tử, thiện nữ nhân này căn lành vô tận cho đến rốt sau làm ngằn mé khổ.
Thiện hiện! Lại thôi cúng dường phật tối thiểu một hoa dùng rải hư không, chỗ được nhóm phước. Nếu các thiện nam tử, thiện nữ nhân tối thiểu một xxưng nam vô phật đà. Các thiện nam tử, thiện nữ nhân này căn lành vô tận, cho đến rốt sau làm ngằn mé khổ. Như vậy, thiện hiện! Ơû chỗ như lai cung kính cúng dường được đại công đức lợi như thế thảy, lượng ấy khó lường.
Vậy nên, thiện hiện! Phải biết thân như lai cùng hóa phật ngang không sai khác, pháp tánh các pháp làm đinh lượng vậy. Vậy nên, thiện hiện! Bồ tát ma ha tát nên đemm pháp tánh các pháp mà làm định lượng, tu hành bát nhã ba la mật đa, phưongtiện khéoléo vào pháp tánh các pháp rồi, mà đối các pháp chẳng hoại pháp tánh. Nghĩa là chẳng phân biệt đây là bát nhã ba la mật đa, đây là pháp tánh bat nhã ba la mật đa. đây là tĩnh lự,tinhtiến, an nhẫn, tịnh giói, bố thí ba la mật đa; đây là pháp tánh tĩnh lự cho đến bố thí ba lam ật đa.
Dây là nôi không, đây là pháp tánh nội không. Đây là nngoại không, nội ngoại không, không không, đai không, thắng nghĩa không, hũuvikhông,vôvikhông, tấtcánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không; đây là pháp tánh ngoại không cho đến vô tánh tu tánh không.
Đây là chơn nhu, đây là pháp tánh chơn như. Đây là pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh,bất biến dị tánh, bình đảng tánh, lysanh ánh,pháp định, pháptrụ, thật tế,hư khônggiới, bất tư nghì giới; đây là pháp tánh pháp giới cho đến bất tư nghì giới.
Đây là bốn niệm trụ, đậy là pháp tánh bốn niệm trụ. Đây là bốn chánh đoạn, bốn thần túc, nam can, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi; đây là pháp tánh bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đao chi.
Đây là khổ thánh đế, đây là pháp tánh khổ thánh đế. Đây là tập diệt đạo thánh đế, đây là pháp tánh tập diệt đạo thánh đế.
Đây là bốn tĩnh lự, đây là pháp tánh bốn tĩnh lự. Đây làbốnvôlượng, bốn vô sắc định; đây là pháp tánh bốn vô lượng, bbốn vô sắc định.
Đây là támm giải thoát, đây là pháp tánh tám giải thoát. Đây là tám thắng xứ, chín thư ùđe âđịnh, muời biến xứ; đây là pháp tánh thắng xứ, chín thứ đệ định, mmười iến xứ.
Đây là tất cả tam ma địa môn, đây là pháp tánh tất cả tam ma địa môn. Đây là tất cả đà la ni môn, đây là pháp tánh tấtcảđà la ni môn.
Đâylàkhông giải thoát môn đây là pháp tánh không giải thoát môn. Đây là vô tướng, vô nguyện giải thoát môn; đây làpháp tánhvô tướng, vô nguyện giải thoát môn.
Đây là năm nhãn, đây là pháp tánh năm nhãn. Đây là sáu thần thông, đây là pháp tánh sáu thần thông.
Đây là phật mười lực, đây là pháp tánh phật mười lực. Đây là bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp phật bất cộng; đây là pháp tánh bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp phậg bất cộng.
Đây là pháp vô vong thất, đây là pháp tánh pháp vô vong thất. Đây là tánh hằng trụ xả, đây là pháp tánh tánh hằng trụ xả.
Đây là nhất thiết trí, đây là pháp tánh nhất thiết trí. Đây là đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí; đây là pháp tánh đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí.
Đây là quả dự lưu, đây là pháp tánh quả dự lưu. Đây là quả nhất lai, bất hoàn, a la hán; đây là độc giác bồ đề, đây là pháp tánh độc giác bồ đề.
Đây là tất cả hạnh bồ tát ma ha tát, đây là pháp tánh tất cả hạnh bồ tát. Đây là chư phật vô thượng chánh đẳng bồ đề, đây là pháp tánh chư phật vô thượng chánh đẳng bồ đề.
Thiện hiện! Bồ tát ma ha tát tu hành bát nhã ba la mật đa chẳng nên phân biệt pháp tánh các pháp sai biệt như thế mà hoại phát tánh.
Cụ thọ thiện hiện thưa phật rằng: bạch thế tôn! Nếu bồ tát ma ha tát chẳng nênn hoại pháp tánh các pháp, vì sao như lai tự hoại pháp tánh các pháp? Nghĩa là phật thường thuyết đây là sắc, đây là thọ tưởng hành thức. Đây là nhãn xứ, đây là nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ. Đây là sắc xứ, đây là thanh hương vị xúc pháp xứ. Đây là nhãn giới, đây là nhĩ tỷ thiệt thân ý giới. Đây là sắc giới, đây là thanh hương vị xúc pháp giới. Đây là nhãn thức giới, đây là nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới. Đây là nhãn xúc, đây là nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc. Đây là nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ, đây là nhĩ tỷ tiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ. Đây là địa giới, đây là thủy hỏa phong không thức giới. Đây là vô minh; đây là hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử sầu thán khổ ưu não, đây là nội pháp, đây là ngoại pháp. Đây là pháp thiện, đây là pháp phi thiện. Đây là pháp hữu lậư, đây là pháp vô lậu. Đây là pháp thế gian, đây là pháp xuất thế gian. Đây là pháp cộng, đây là pháp bất cộng. Đây là pháp hữu tránh, đây là pháp vô tránh. Đây là pháp hữu vi, đây là pháp vô vi. Phật đã từng thuyết các pháp như thế thảy, đây không tự hoại pháp tánh các pháp?
Phật nói: thiện hiện! Ta chẳng tự hoại pháp tánh các pháp. Chỉ đem danh tướng phương tiện mượn thuyết pháp tánh các pháp, khiến các hữu tình nhờ được ngộ vào pháp tánh các pháp lý không sai khác. Vậy nên, thiện hiện! Ta từng chằng hoại pháp tánh các pháp.
Cụ thọ thiện hiện thưa phật rằng: bạch thế tôn! Nếu phật chỉ đem danh tướng tuyên nói pháp tánh các pháp khiếnn các hữu tình nhờ được ngộ vào. Vì sao phật đối pháp vô danh vô tướng, đem danh tướng mà thuyết khiến người ngộ vào ư?
Phật nói: thiện hiện! Ta tùy thế tục giả lập danh tướng phương tiện tuyên nói pháp tánh các pháp mà không chấp trước. Thiện hiện! Như các ngu phu nghe thuyết khổ thảy chấp trước danh tướng, chẳng biết giả nói. Chó chẳng phải các như lai và đệ tử phật nghe thuyết khổ thảy chấp trước danh tướng. Nhưng như thật biết tùy thế tục mà nói, khhông có chơn thật các pháp danh tướng. Thiện hiện! Nếu các thánh giả đối danh trước danh, đối tướng trước tướng. Như vậy, cũng nên đối không trước không, đối vô tướng trước vô tướng, đối vô nguyện trước vô nguyện. Đối chơn như trước chơn như, đốì thật tế trước thật tế, đối pháp giới trước pháp giới, đối vô vi trước vô vi. Thiện hiện! Tất cả pháp này chỉ có giả danh, chỉ có giả tướng mà không chơn thật. Thánh giả đối trong ấy cũng chẳng trụ trước, chỉ có giả tướng. Như vậy, thiện hiện! Bồ tát ma ha tát trụ tất cả pháp chỉ giả danh tướng, nên hành bát nhã ba la mật đa, mà đối trong ấy chẳng nên trụ trước.
Cụ thọ thiện hiện thưa phật rằng: bạch thế tôn! Nếu tất cả pháp chỉ có danh tướng. Bồ tát ma ha tát vì việc nào nên phát tâm bồ đề. Đã pháp tâm rồi, chịu các siêng khổ hành hạnhh bồ tát: tu hành bố thí ba la mật đa; tu hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã ba la mật đa. an trụ nội không; an trụ ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không, an trụ chon như; an trụ pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới. Tu hành bốn niệm trụ; tu hành bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi. An trụ khổ thánh đế, an trụ tập diệt đạo thánh đế. Tu hành bốn tĩnh lự; tu hành bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Tu hành tám giải thoát; tu hành tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ. Tu hành tất cả tam ma địa môn; tu hành tất cả đà la ni môn. Tu hành không hiải thoát môn; tu hành vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Tu hành năm nhãnn, tu hành sáu thần thông. Tu hành phật mười lực; tu hành bốn vô sỏ úy, bốn vô nngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp phật bất cộng. Tu hành pháp vô vong thất, tu hành tánh hằng trụ xả. Tu hành nhất thiết trí; tu hành đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí đều khiến viên mãn?
Phật nói: thiện hiện! Như người đã thuyết. Nếu tất cả pháp chỉ có danh tướng, bồ tát ma ha tát vì việc nào nên phát tâmm bồ đề, hành hạnh bồ tát ấy.
Thiện hiện! Vì tất cả pháp chỉ có danh tướng. Danh tướng như thế chỉ giả thi tiết, tánh danh tướng không. Các loại hữu tình điên đảo chấp trước, trôi lăn sanh tử chẳng được giải thoát. Vậy nên, bồ tát ma ha tát pháp tâm bồ đề, hành hạnh bồ tát, lầnn lữa chứng được nhất thiết tướng trí, quay xe chánh pháp, đem pháp tam thừa độ thoát hữu tình khiến ra sanh tử, vào cõi vô dư y niết bàn, mà các danh tướng không sanh không diệt, cũng không trụ khác thi thiết khá được.
Bấy giờ, cụ thọ thiện hiện thưa phật rằng: bạch thế tôn! Phật thuyết nhất thiết tướng trí vì nhất thiết tướng trí ư? Phật nói: thiện hiện! Ta thuyết nhất thiết tướng trí nhất thiết tướng trí.
Cụ thọ thiện hiện lại thưa phật rằng: bạch thế tôn! Như lai thường thuyết nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí. Ba trí như thế, tướng ấy thế nào, có sai khác gì không? Phật nói: thiện hiện! Nhất thiết trí ấy là cộng trí thánh văn và độc giác. Đạo tướng trí ấy là cộng trí bồ tát ma ha tát. Nhất thiết tướng trí ấy là diệu trí bất cộng của các như lai ứng chánh đẳng giác.
Cụ ghọ thiện hiện lại thưa phật rằng: bạch thế tôn! Duênn nào nhất thiết trí là cộng trí thanh vân và độc giác? Phật nói: thiện hiện! Nhất thiết trí ấy nghĩa là năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới thảy; thanh văn, độc giác cũng năng rõ biết, mà chẳng năng biết tất cả đạo tướng vvà tất cả pháp, tất cả chủng tướng.
Cụ thọ thiện hiệnn lại thưa phật rằng: bạch thế tôn! Duyên nào đạo tướng trí là cộng trí bồ tát ma ha tát? Phật nói: thiện hiện! Các bồ tát ma ha tát nên học biết khắp tất cả đạo tướng. Nghĩa là đạo tướng thanh văn, đạo tướng độc giác, đạo tướng bồ tát, đạo tướng như lai. Bồ tát ma ha tát đối các đạo tướng này thường nên tu học khiến mau viên mãn. Tuy khiến đạo này làm việc đáng làm, mà chẳng cho kia chứng nơi thật tế.
Cụ thọ thiện hiện lại thưa phật rằng: bạch thế tôn! Bồ tát ma ha tát tu đạo như lai, được viên mãn rồi, đâu đối thật tế chẳng tác chứng ư? Phật nói: thiện hiện! Các bồ tát ma ha tát, nếu chưa viên mãn nghìêm tịnh cõi phật, thành thục hữu tình, tu các đại nguyện, vẫn đối thật tế chưa nên tác chứng. Nếu đã viên mãn nghiêm tịnh cõi phật, thành thục hữu tình, tu các đại nguyện, đối thật tế kia mới nên tác chứng.
Bạch thế tôn! Bồ tát ma ha tát vì trụ nơi đạo chứng thật tế ư? Chẳng trụ, thiện hiện!
Bạch thế tôn! Bồ tát ma ha tát vì trụ phi đạo chứng thật tế ư?/ chẳng trụ, thiện hiện!
Bạch thế tôn! Bồ tát ma ha tát vì trụ đạo phi đạo chứng thật tế ư? Chẳng trụ, thiện hiện!
Bạch thế tôn! Bồ tát ma ha tát vì trụ phi đạo phi phi đạo chứng thật tế ư? Chẳng trụ, thiện hiện!
Cụ thọ thiện hiện thưa phật rằng: bạch thế tôn! Nếu vậy, bồ tát ma ha tát phải trụ chỗ nào mà chứng thật tế?
Phật bảo: thiện hiện! Nơi ý hiểu sao? Người vì trụ đạo được hết các lậu, tâm giải thoát ư? Bạch thế tôn! Chẳng phải vậy.
Thiện hiện! Người vì trụ phi đạo, được hết các lậu, tâm giải thoát ư? Bạch thế tôn! Chẳng phảì vậy.
Thiện hiện! Người vì trụ đạo phi đạo, được hết các lậu, tâm giải thoát ư? Bạch thế tôn! Chẳng phải vậy.
Thiện hiện! Người vì trụ phi đạo phi phi đạo, được hết các lậu, tâm giải thoát ư? Bạch thế thôn! Chẳng phải vậy. Chẳng phải tôi có trụ, được hết các lậu, tâm giải thoát hẳn. Nhưng tôi hết lậu, tâm được giải thoát đều vô sỏ trụ.
Phật nói: thiện hiện! Bồ tát ma ha tát cũng lại như vậy, tu hành bát nhã ba la mật đa đều vô sỏ trụ mà chứng thật tế.
Cụ thọ thiện hiện lại thưa phật rằng: bạch thế tôn! Duyên nào nhất thiết tướng trí tên nhất thiết tướng trí ư? Phật nói: thiện hiện! Biết tất cả pháp đều đồng một tướng nhĩa là tướng tịch diệt. Vậy nên, tên là nhất thiết tướng trí. Lại nữa, thiện hiện! Các hành trạnh tướng năng làm tiêu biểu các pháp. Như lai như năng khắp giác biết, vậy nên gọi tên nhất thiết tướng trí.
Cụ thọ thiện hiện thưa phật rằng: bạch thế tôn! Hoặc nhất thiết trí, hoặc đạo tướng trí, hoặc nhất thiết tướng trí. Ba trí như thế dứt các phiền não có sai khác chăng? Có dứt có thừa dư, dứt không thừa dư chăng?
Phật nói: thiện hiện! Chẳng phải dứt các phiền não có sai khác. Nhưng các như lai ứng chánh đẳng giác, tất cả tập khí nối nhau phiền não đều đã dứt hẳn. Thanh văn, độc giác tập khí nối nhau hãy chưa dứt hẳn.
Bạch thế tôn! Dứt các phiền nnão được vô vi chăng? Như vậy, thiện hiện! Bạch thế tôn! Thanh vân, độc giác chẳng được vô vi phiền não dứt chăng? Chẳng dứt, thiện hiện.
Bạch thế tôn! Trong pháp vô vi có sai khác ch8ng? Chẳng khác, thiện hiện. Bạch thế tôn!nếu pháp vô vi không sai khác ấy. Cớ sao phật nói tất cả như lai ứng ch1nh đẳng giác tập khí nối nhau đều đã dứt hẳn; thanh văn, độc giác hãy chưa dứt hẳn? Thiện hiện! Tập khí nối nhau thật chẳng phải phiền não. Nhưng các thanh vân và độc giác phiền não đã dứt, mà còn có chút phần giống như tham sân si, thân ngữ ý chuyển, túc nói đấy là tập khí nối nhau. Nối nhau đây ở tại ngu phu dị sanh năng dẫn vô nghĩa, chớ chẳng phải nối nhau tại thanh văn, độc giác năng dẫn vô nghĩa. Như vậy, tất cả tập khí nối nhau chư phật hẳn không có.
Bấy giờ, cụ thọ thiện hiện thưa phật rằng: bạch thế tôn! Đạo cùng niết bàn đều vô tự tánh, cớ sao phật nói: đây là dự lưu, đây là nhất lai, đây là bất hoàn, đây là l la hán, đây là độc giác, đây là bồ tát ma ha tát, đây là như lai ứng chánh đẳng giác? Phật nói: thiện hiện! Hoặc dự lưu, hoặc nhất lai, hoặc bất hoàn, hoặc a la hán, hoặc độc giác, hoặc bồ tát ma ha tát, hoặc các như lai ứng chánh đẳng giác. Tất cả như thế do vô vi hiển ra. Bạch thế tôn! Trong pháp vô vi thật có nghĩa sai khác dự lưu cho đến như lai ứng chánh đẳng giác chăng? Chẳng có, thiện hiện. Bạch thế tôn! Nếu vậy, cớ sao phậ nói dự lưu cho đến như lai ứng chánh đẳng giác tất cả đều là vô vi hiển ra? Thiện hiện! Ta y thế tục nói lời hiền ra, chẳng y thắng nghĩa. Chẳng phải trong thắng nghĩa có được hiển ra. Vì cớ sao? Thiện hiện! Chẳng phải trong thắng nghĩa có đường ngôn ngữ, hoẵc huệ phân biệt, hoặc lại hai thứ. Nhưng dứt ngằn kia kia, lập mé sau kia kia.
Cụ thọ thiện hiện thưa phật rằng: bạch thế tôn! Tất cả pháp tự tướng đã đều không, ngằn trước hãy không huống có mé sau, làm sao lập được có mé sau ư? Phật nói: thiện hiện! Như vậy, như vậy. Như ngươi đã nói. Các pháp sỏ hữu tự tướng đều không, ngằn trước hãy không huống có mé sau, lập có mé sau quyết định không có lẽ ấy. Nhưng các hữu tình chẳng năng hiểu rõ các pháp sở hữu tự tướng đều không. Vì nhiêu ích kia, phương tiện vì nói: đây là ngằn trước, đây là mé sau. Nhưng trong tất cả pháp tự tướng không, ngằn trước mé sau đều chẳng khá được. Như vậy, thiện hiện! Bồ tát ma ha tát đạt được tất cả pháp tự tướng không rồi, nên hành bát nhã ba la mật đa. thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát đạt tất cả pháp tự tướng đều không, tu hành bát nhã ba la mật đa, đối trong các pháp không sỏ chấp trước. Nghĩa là chẳng chấp trước gội pháp ngoại pháp, thiện pháp phi thiện pháp, thế gian pháp xuất thế gian pháp, hữu lậu pháp vô lậu pháp, hữu vi pháp vô vi pháp, hoặc thanh văn pháp, hoặc độc giác pháp, hoặc bồ tát pháp, hoặc như lai pháp. Tất cả như thế đều chẳng chấp trước.
Cụ thọ thiện hiện thưa phật rằng: bạch thế tôn! Như lai thường nói bát nhã ba la mật đa. bát nhã ba la mật đa lấy nghĩa nào nên tên là bát nhã ba la mật đa?
Phật nói: thiện hiện! Bát nhã ba la mật đa như thế đến tất cả pháp bờ kia rốt ráo, nên tên bát nhã ba la mậ đa.
Lại nữa, thiện hiện! Do bát nhã ba la mật đa đây, tất cả thanh văn, độc giác, bồ tát và các như lai ứng chánh đẳng giác năng đến được bờ kia, nên tên bát nhã ba la mật đa.
Lai nữa, thiện hiện! Tất cả như lai ứng chánh đẳng giác và các chúng bồ tát ma ha tát, dùng bát nhã ba la mật đa này y theo lý thắng nghĩa, chia chẻ các pháp, như chẻ các sắc đến lượng cực vi, hãy chẳng thấy có chút thật khá được, nên tên bát nhã ba la mật đa.
Lại nữa, thiện hiện! Ơû bát nhã ba la mật đa này, bao trùm chơn như, thật tế, pháp giới, nên tên bát nhã ba la mật đa.
Lại nữa, thiện hiện! Chẳng phải bát nhã ba la mật đa đây có pháp chút phần hoặc hợp hoặc tan, hoặc hữu sắc hoặc vô sắc, hoặc hữu kiến hoặc vô kiến, hoặc hữu đối hoặc vô đối, hoặc hữu lậu hoặc vô lậu, hoặc hữu vi hoặc vô vi. Sỏ vì sao? Thiện hiện! Bát nhã ba la mật đa như thế vô sắc, vô kiến, vô đối, nhất tướng, chỗ gọi vô tướng, nên tên bát nhã ba la mật đa.
Lại nữa, thiện hiện! Bát nhã ba la mật đa như thế năng sanh tất cả pháp lành thù thắng, năng pháp tất cả trí huệ biện tài, năng dẫn tất cả vui thế gian, xuất thế gian, nên tên bát nhã ba la mật đa.
Lại nữa, thiện hiện! Bát nhã ba la mật đa như thế, thẳm sâu bền chắc chẳng động hoại được. Nếu bồ tát ma ha tát hành bát nhã ba la mật đa này, tất cả ác ma và quyến thuộc chúng, thanh văn, độc giác, ngoại đạo phạm chí, bạn ác, oán tù đều chẳng năng hoạì được. Vì cớ sao? Thiện hiện! Do bát nhã ba la mật đa đây làm cho tất cả pháp tự tướng đều không, các ác ma thảy đều chẳng khá được, nên tên bát nhã ba la mật đa. thiện hiện! Các bồ tát ma ha tát nên như hành bát nhã ba la mật đa nghĩa thú thẳm sâu như thế.
Lại nữa, thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát muốn hành bát nhã ba la mật đa nghĩa thú thẳng sâu nên hành nghĩa vô thường, nghĩa khổ, nghĩa không, nghĩa vô ngã. Nên hành nghĩa khổ trí, nghĩa tập trí, nghĩa diệt trí, nghĩa đạo trí. Nên hành nghĩa pháp trí, nghĩa lại trí, nghĩa thế tục trí, nghĩa tha tâm trí. Nên hành nghĩa tận trí, nghĩa vô sanh tí, nghĩa hư thuyết trí. Thiện hiện! Các bồ tát ma ha tát vì hành bát hã ba la mật đa nghĩa thú thẳm sâu, nênn mới hành bát nhã ba la mật đa.
Cụ thọ thiện hiện thưa phật rằng: bạch thế tôn! Trong bát nhã ba la mật đa thẳm sâu đ6y nghĩa cùng phi nghĩa đều chẳng khá được. Bồ tát ma ha tát làm sao vì hành bát nhã ba la mật đa nghĩa thú thẳm sâu nên hành bát nhã ba la mật đa?
Phật nói: thiện hiện! Bồ tát ma ha tát vì hành bát nhã ba la mật đa nghĩa thú thẳm sâu nên khởi nghĩ này: ta chẳng nên hành tham dục nghĩa phi nghĩa. Ta chẳng nên hành giận dữ nghĩa phi nghĩa. Ta chẳng nên hành ngu si nghĩa phi nghĩa. Ta chẳng nên hành tà kiến nghĩa phi nghĩa. Ta chẳng nên hành các ác kiến thú nghĩa phi nghĩa. Sở dĩ vì sao? Thiện hiện! Tham dục, giận dữ, ngu si, tà kiến, tà định, kiến thú, chơn như, thật tế chẳng cùng các pháp làm nghĩa phi nghĩa.
Lại nữa, thiện hiện! Bồ tát ma ha tát vì hành bát nhã ba la mật đa nghĩa thú thẳm sâu, nên khởi nghĩ này: ta chẳng nênn hành hắc nghĩa phi nghĩa, ta chẳng nên hành thọ tưởng hành thức nghĩa phi nghĩa. Ta chẳng nên hành nhãnn xứ nghĩa phi nghĩa, ta chẳng nên hành nhĩ tỷ thệt thân ý xứ nghĩa phi nghĩa. Ta chẳng nênn hành sắc xứ nghĩa phi nghĩa, ta chẳng nênn hành thanh hương vị xúc pháp xứ nghĩa phi nghĩa.
Ta chẳng nên hành nhãn giới nghĩa phi nghĩa, ta chẳng nên hành nhĩ 6ỷ thiệt thân ý giới nghĩa phi nghĩa. Ta chẳng nênn hành sắc giói nghĩa phi ghĩa, ta chẳng nên hành thanh hương vị xúc pháp giới nghĩa phi nghĩa. Ta chẳng nên hành nhãn thức giới nghĩa phi nghĩa, ta chẳng nên hành nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới nghĩa phi nghĩa. Ta chẳng nên hành nhãn xúc nghĩa phi nghĩa, ta chẳng nên hành nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc nnghĩa phi nghĩa. Ta chẳng nên hành nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ nghĩa phi nghĩa, ta chẳng nên hành nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ nghĩa phi nghĩa.
Ta chẳng nên hành địa giới nghịa phi nghĩa, ta chẳng nên hành thủy hỏa phong không thức giới nghĩa phi nghĩa. Ta chẳng nên hành vô minh nghĩa phi nghĩa; ta chẳng nên hành hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh. Lão tử sầu thán khồ ưu não nghĩa phi nghĩa.
Ta chẳng nên hành bố thí ba la mật đa nghĩa phi nghĩa; ta chẳng nên hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã ba la mật đa nghịa phi nghĩa.
Ta chẳng nên hành nội không nghĩa phi nghĩa; ta chẳng nên hành ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết ph1p không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không nghĩa phi nghĩa.
Ta chẳng nên hành chon như nghĩa phi nghĩa; ta chẳng nên hành pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới nghĩa phi nghĩa.
Ta chẳng nên hành bốn niệm trụ nghĩa phi nghĩa; ta chẳng nên hành bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi nghĩa phi nghĩa. Ta chẳng nên hành khổ thánh đế nghĩa phi nghĩa, ta chẳng nên hành tập diệt đạo thánh đế nghĩa phi nghĩa.
Ta chẳng nên hành bốn tĩnh lự nghĩa phi nghĩa; ta chẳng nên hành bốn vô lượng, bốn vô sắc định nghĩa phi nghĩa. Ta chẳng nên hành tám giải thoát nghĩa phi nghĩa; ta chẳng nên hành tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ nghĩa phi nghĩa.
Ta chẳng nên hành tất cả tam ma địa môn nghịa phi nghĩa; ta chẳng nên hành không giãi thoát môn nghĩa phi nghĩa; ta chẳng nên hành vô tướng, vô nguyện giải thoát môn nghĩa phi nghĩa. Ta chẳng nên hành năm nhãn nghĩa phi nghĩa; ta chẳng nên hành sáu thần thông nghĩa ph nghĩa.
Ta chẳng nên hành phật mười lực ghĩa phi nghĩa; ta chẳng nên hành bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp phật bất cộng nghĩa phi nghĩa.
Ta chẳng nên hành pháp vô vong thất nghĩa phi nghĩa. Ta chẳng nên hành đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí nghĩa phi nghĩa.
Ta chẳng nên hành quả dự lưu nghĩa phi nghĩa; ta chẳng nên hành quả nhất lai, bất hoàn, a la hán nghĩa phi nghĩa. Ta chẳng nên hành độc giác bồ đề nghĩa phi nghĩa.
Ta chẳng nên hành tất cả hãnh bồ tát ma ha tát nghĩa phi nghĩa. Ta chẳng nên hành chư phật vô thượng chánh đẳng bồ đề nghĩa phi nghĩa.
Sở dĩ vì sao? Thiện hiện! Khi như lai được vô thượng chánh đẳng bồ đề chẳng thấy có pháp năng cùng chút pháp làm nghĩa phi nghĩa. Thiện hiện! Như lai ra đời, hoặc chẳng ra đời, các pháp pháp tánh, pháp trụ, pháp định, lẽ vậy thường trú, không có pháp đối với pháp làm nghĩa phi nghĩa. Như vậy, thiện hiện! Bồ tát ma ha tát nên lìa nghĩa phi nghĩa, thường hành nghĩa thú bát nhã ba la mật đa thẳn sâu.
Cụ thọ thiện hiện thưa phật rằng: bạch thế tôn! Cớ sao bát nhã ba la mật đa chẳng cùng các pháp làm nghĩa phi nghĩa?
Phật nói: thiện hiện! Bát nhã ba la mật đa thẳm sâu đối pháp hữu vi và pháp vô vi đều vô sở tác, chẳng ơn chẳng oán, không ích không tổn. Vậy nên, bát nhã ba la mật đa chẳng cùng các pháp làm nghĩa phi nghĩa.
Cụ thọ thiện hiện lai thưa phật rằng: bạch thế tôn! Các đức phật và đệ tử phật, tất cả thánh hiền, đâu chẳng đều đem vô vi làm đệ nhất nghĩa? phật nói: thiện hiện! Như vậy. Như người vừa nói. Phật và đệ tử, tất cả thánh hiền đều đem pháp vô vi làm đệ nhất nghĩa. Nhưng pháp vô vi chẳng cùng các pháp làm ích làm tổn. Thiện hiện! Ví như hư không chơn như chẳng cùng các pháp làm ích làm tồn. Bồ tát ma ha tát, bát nhã ba la mật đa thẳm sâu cũng lại như vậy, chẳng cùng các pháp làm ích làm tổn. Vậy nên, bát nhã ba la mật đa chẳng cùng các pháp làm nghĩa phi nghĩa.
Cụ thọ thiện hiện thưa phật rằng: bạch thế tôn! Bồ tát ma ha tát đâu chẳng cần học bát nhã ba la mật đa thẳm sâu vô vi, mới năng chứng được nhất thiết trí trí? Phật nói: thiện hiện! Như vậy, như vậy. Như ngươi vừa nói. Bồ tát ma ha tát cần học bát nhã ba la mật đa thẳm sâu vô vi, mới năng chứng được nhất thiết trí trí. Chẳng đem hai pháp mà làm phương tiện. Bạch thế tôn! Vì đem chẳng hai pháp, được chẳng hai pháp ư? Chẳng được. Thiện hiện! Bạch thế tôn! Vì đem hai pháp được chẳng hai pháp ư? Chẳng được. Thiện hiện! Bạch thế tôn! Nếu không hai pháp, chẳng đem hai pháp, chẳng hai pháp được, bồ tát ma ha tát làm sao sẽ được nhất thiết trí trí? Phật nói: thiện hiện! Hai chẳng hai pháp đều chẳng khá được. Vậy nên, sở đắc nhất thiết trí trí. Chứ chẳng phải hữu sở đắc nên đắc, cũng chẳng phải vô sở đắc nên đắc. Vì pháp hữu sở đắc, pháp vô sở đắc, chẳng khá được vậy. Nếu biết như thế mới năng chứng được nhất thiết trí trí.