Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hương mùa, cát bụi & cỏ hoa (tập thơ)

18/12/201405:58(Xem: 7938)
Hương mùa, cát bụi & cỏ hoa (tập thơ)

phong canh 3

Tập Thơ
HƯƠNG – MÙA
CÁT BỤI Và CỎ HOA.



 

Phần I.

 

  1. Có mùa nào

Sắc hương ngàn dịu vợi

Xuân-Hạ-Thu-Đông… rồi!

Chỉ ngoài kia gió mới

Thinh lặng vầng mây trôi.

 

  1. Có Xuân nào

Không câu đối giao mùa

Tỉnh thức – Xuân từ đó…

Giọt sương trong… Phật thừa!

 

  1. Có Hạ nào

Không ửng trời lựu đỏ

Không gió rát bên thềm

Nhặt chút tình hoa cỏ

Tan nỗi sầu cô miên.

 

  1. Có Thu nào

Không cánh chim vời vợi

Không mây trắng qua thềm

Tình sen thu khẽ gọi

Vầng trăng mẹ diệu huyền.

 

  1. Có Đông nào

Khi đất trời trở dạ

Không giá buốt đêm thâu

Mắt đời rưng lệ đá

Giọt tinh sương nhiệm mầu.

  1. Có hương nào

Dù mãi ngàn năm nữa

Dâng đời bao ý thơm

Từng giọt cam lồ sữa

Tịnh hóa một tâm hồn.

 

  1. Chiếc lá

Khi già hương tư tưởng

Đã gội sắc hương rừng

Một thoáng xanh muôn hướng

Chiều lên về cội ngồn.

 

  1. Không gian nào

Cây trong vườn chim hót

Hoa bên trời đưa hương

Tiếng sáo diều thảnh thót

Rót vầng thơ mười phương.

 

  1. Hội tụ

Đất trời hương muôn thuở

Xanh, mắt xanh núi rừng

Kẽ đá cành hoa nở

Diệu Pháp Hoa thơm lừng.

 

  1. Những chiếc lá

 Chở gió sương và nắng

 Mặt sân rụng chiều qua

 Ta gom thời gian lại

 Gởi hương chốn trời xa.

 

  1. Nắng mới

 Chờm lên hương cổ thụ

 Giọt sương mai thủy tinh

 Bên thềm mây tĩnh tọa

 Giữa trời đất thanh bình.

  1. Ngôi nhà cũ

 Nhuốm bao mùa sương gió

 Giữa cuộc bể dâu nầy

 Chợt cánh hoa đầu ngõ

 Thoảng hương trời qua đây.

 

  1. Bút hoa

 Nở giữa bọng đời tinh túy

 Nụ cuời tỏa thơm mười phương

 Vi diệu lời truyền Từ Thị

 Hằng sa cát bụi dâng hương.

 

  1. Tình mười phương

 Tiếng chim sâu buổi sáng

 Lay động trời mù sương

 Tinh khôi cơn gió thoảng

 Hoa cỏ về dâng hương

 Thanh âm đời một thoáng

 Mây trắng tình mười phương.

 

  1. Bình minh

Trên nhánh cây đương lộc

 Tiếng chim gọi bình minh

 Lung linh hạt sương ngọc

 Nghe lá thức quanh mình

 Thoảng hương trà tĩnh lặng

Giữa trời đất nguyên lành.

 

  1. Cõi ta

 Biết đâu là mặt mũi

 Vỡ hồn sương ban sơ

 Đi tìm hương đất mới

 Nguyên thủy một vần thơ.

 

 

  1. Ý mầu

Hương trà thơm trong sương

 Mây tụ thềm hoa cỏ

 Ba ngàn thế giới hương

 Tụ ý mầu Không-Có.

 

  1. Giọt sương

Góp hương rừng núi biếc

Trong ngần gương thủy tinh

Giọt thơm miền sinh diệt

Giữa muôn trùng tử sinh.

 

  1. Dưới gốc mai

 Ngồi dưới gốc mai cổ

 Hương thoảng tự ngàn xưa

 Biết đời Mai cốt cách

 Chở vầng trăng Phật Thừa.

 

  1. Cổ thụ

Ngàn năm xanh bóng cổ

Hương trời đất một phen

Mười phương mây Tịnh độ

Cánh chim về bình yên.

 

  1. Ngày, Đêm

Đêm vầng trăng Viên giác

Hương đất trời Tâm kinh

Ngày đại nhật Viên lạc

Giữa muôn trùng tử sinh.

 

phong canh 3

 

Tập thơ Hương Mùa (tiếp theo 2)


DÒNG MỘNG

38.      Con sông nào ?

Tháng ngày xuôi dòng chảy

Chở bao nỗi đời đau

Âm thầm trôi đi mãi

Từ vạn cổ xưa sau.

 

39.      Con sông nào ?

Chở bao mùa sương gió

Về bên trời viễn phương

Để ngàn mây từ đó

Vỗ khúc đoạn vô thường.

 

40.      Con thuyền nào ?

Ngàn phương về bến đổ

Ngừng nhịp sóng thời gian

Vầng trăng tròn gương cổ

Mưa gió tạnh tràng giang.

 

41.      Hướng phương

Đường mây xuôi dòng sông lạ

Hỏi chi nhánh cỏ, cành lau !?

Giọt lệ từ khi hóa đá

Người về từ cõi chiêm bao.

 

42.      Lênh đênh

Lênh đênh thuyền một chiếc

Sông dài bể rộng thênh

Giữa sắc màu sinh diệt

Từng ý niệm lênh đênh.

 

43.      Rẻ sóng

Con thuyền rẻ sóng nước

Dòng trôi, xanh tự tình

Mái chèo khua nhịp nước

Bỏ sau mùa tử sinh.

 

44.      Viễn phương

Chợt nghe tiếng chim cu gáy

Từ trong ánh nắng quê hương

Lòng ai thức trời quan tái

Lòng ai vẫn còn viễn phương !?

 

45.      Nghiêng

Quán chiều nghiêng sóng bụi

Sông chiều nghiêng khói sương

Đò chiều nghiêng mây nổi

Ta chiều nghiêng vô thường.

 

46.      Bến xưa

Bến xưa, thuyền đổ bến

Chèo xưa, gát mái chèo

Bóng chim cùng bóng nước

Nơi nào không trăng theo.

 

47.      Bến đổ

Bình an sau cơn sóng gió

Thuyền về với ánh trăng khuya

Mái chèo thôi chao nhịp nước

Trong ngần nỗi nọ, niềm kia.

 

48.      Giòng đạo sử

Ngọn lửa

Đốt cháy nỗi sầu vô tận

Còn đâu hò hẹn thủy chung

Mây nước bình minh tĩnh lặng

Giòng sông đạo sử trầm hùng.

 

49.      Ráng chiều

Bóng dựng nghiêng đầu núi

Lạc giọng tiếng chim kêu

Tràng giang con nước nổi

Người về chốn tịch liêu.

 

50.      Như dòng trôi

Người đi

Đi như dòng trôi mây nước

Bình yên như cỏ, như hoa

Bỏ sau những gì mộng ước

Thênh thang đời vẫn muôn nhà.

 

51.      Trong hồ

Con cá quẩy đuôi hớp nước

Nước tung trắng bọt theo dòng

Vẫn ta giữa đời đếm bước

Vẫn ta giữa đời đục trong.

 

52.      Vũng nước

Gió ru mây ngàn soi bóng

Râm râm giọt nắng giao mùa

Thanh âm rơi vào tĩnh lặng

Chim về tắm mát ban trưa.

 

53.      Vẫn còn

Ai theo lời mây nước

Từ buổi hồng sơ nguyên

Nước mây trôi chảy miết

Còn lại cõi bình yên.

 

54.      Cõi thực nào

Không là vầng trăng diệu pháp

Tìm chi vết nhạn qua sông

Ngàn năm tỉnh lòng hạt bụi

Cành sương chợt nắng mai hồng.

 

55.      Cái bóng nào ?

Bóng mây cùng bóng nước

Bóng ảo khói sương mù

Bóng vô thường thoáng trước

Bóng ta, người

Thực hư.

 

56.      Góc sung

Trăm năm nên vóc dáng

Đời tạc nỗi suy tư

Bao gió sương và nắng

Nên gốc sung bây giờ.

 

57.      Thời gian

Thời gian chảy xiết đá

Thời gian mộng sông dài

Ta, thời gian dừng lại

Ác tầm, hiện, vị lai.

 

                                       MẶC PHƯƠNG TỬ.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/04/2024(Xem: 22435)
Phật giáo Việt Nam trong hai thế kỷ cận đại và hiện đại, xuất hiện một số nhân vật đạo hạnh cao vời, kỳ tài xuất chúng, có những cống hiến to lớn, dài lâu cho Đạo pháp và Dân tộc. Ngôn ngữ nhà Thiền xưng tụng những vị này là Bồ-tát, Đại sĩ, Thánh Tăng, hay Long Tượng, là những tôn danh chỉ được tìm thấy trong kinh điển, sử sách, trong lịch sử truyền miệng hoặc trên những bia đá ngàn năm nơi cổ tháp. Triết gia Phạm Công Thiện trong buổi ra mắt tác phẩm “Huyền Thoại Duy Ma Cật” của Hòa thượng Tuệ Sỹ tại thành phố Houston, tiểu bang Texas ngày 04 tháng 11 năm 2007, đã gọi tác giả là “bậc Long Tượng: Tuệ Sỹ” và diễn giải thêm, “Long Tượng là bậc Thầy của cả một dân tộc, nếu chưa muốn nói là bậc Thầy của thế giới.”
24/04/2024(Xem: 475)
Xa quê ngẫu nhỉ! Gặp ngài, Một vị trưởng lão đất trời âu châu, Dáng phương phi, nguyệt thượng đầu; Đã không mệt mỏi bắt cầu tây đông Cốt cách vốn dĩ tượng long, Ẩn mình dưới bóng trượng tòng sa môn; Một đời phụng sự hết lòng Những hàng hậu học mênh mông ân ngài.
24/04/2024(Xem: 556)
Hôm nay nhìn Mẹ Quán Âm Lòng con xúc động vô ngần hỷ hoan Dáng Mẹ thanh thoát nhẹ nhàng Nét từ bi hiện rõ ràng tôn nhan Tâm ai dù có ngổn ngang Nhìn Mẹ cũng thấy ổn an đôi phần
23/04/2024(Xem: 507)
Năm 2024 là kỷ niệm 60 năm ngày xuất gia lần đầu, Mùng 8 tháng 2 năm Giáp Thìn (21/3/1964), cũng là đánh dấu 20 năm (2004-2024) sống trên một tiểu bang và đất nước “đáng sống”, “hạnh phúc nhất nhì thế giới” đó là Nam Úc. Nghĩ lại mình: “Đệ tử phước cạn nghiệp sâu, Chướng dày huệ mỏng, Nhiễm tâm dễ khởi, Tịnh đức khó thành, Nay xin một lòng, Tin thành sám hối”. Chắc do nghiệp chướng nhiều đời nhiều kiếp đã gieo tạo, nên khi sinh ra, lớn lên đều ở trong môi trường khiêm tốn về vật chất, còn tinh thần cũng nhiều bất hạnh với cuộc đời. Vừa bất hạnh, vừa nghèo, lại không tài giỏi, tưởng rằng sẽ phải chịu nhiều khốn khổ. Nhưng chắc nhờ ảnh hưởng bởi âm đức, có được bản tánh hiền lành, luôn hài hòa trong cuộc sống, sẵn sàng chịu thiệt thòi, cho mọi việc được hanh thông, tốt đẹp. Riêng với tự thân tin tưởng tuyệt đối vào luật nhân quả, thấm nhuần lời dạy của chư Tổ và hiểu được rằng: Phật Pháp rất nhiệm mầu. “Im lặng là vàng. Chịu thiệt là phúc. Nhẫn nhịn là bạc. Giúp người là đức”. Nên hằng
20/04/2024(Xem: 545)
Bồ Tát Quán Thế Âm Nghe tiếng kêu thống khổ Nhân loại đang lầm than Trong sầu đau phiền não. Thị hiện để cứu người Tùy căn duyên độ đời Không phân biệt phú quý Hay tay lấm chân bùn.
17/04/2024(Xem: 788)
Đường về núi cũ chùa xưa Phật thiêng trên cõi phù du vô thường Cỏ hồng hiu hắt quê hương Trên đồi Trại Thuỷ nở vườn kỳ hoa Chân trời cao rộng xuất gia Đi tìm vô hạn mây hoà với thơ Điêu linh mặt đất bến bờ Vòng tay cát bụi đợi chờ ôm mang
17/04/2024(Xem: 636)
Xứ Úc hiền hoà nay xảy ra quá nhiều xô xát ! Hành vi đâm chém (stabbing ) có thể do phẫn nộ ẩn giấu bên trong Học lại bài kinh “Ví dụ cái cưa “ mới cảm thông (1) Vì lòng từ bi, Đức thế Tôn đã giáo giới !
17/04/2024(Xem: 235)
Đời ta, chiếc lá Bồ Đề Thăng trầm muôn nỗi.. rồi về cội xưa Đời ta, là tiếng chuông chùa Ngân nga theo gió bốn mùa nhân gian Đời ta, là một nén nhang Tỏa làn hương .. nguyện bình an khắp cùng Thu tàn, Đống đến, sang Xuân.. Thì ta vẫn thế, sống trong hiện tiền.
13/04/2024(Xem: 186)
Các anh là chiến sĩ oai hùng Hiên ngang chiến đấu khắp mọi vùng Chí cả sáng ngời như Nhật Nguyệt Dâng hiến đời vì lợi ích chung. Các anh là chiến sĩ tài hoa Vạn tâm hồn là vạn tinh hoa Sống hiên ngang trong thời ly loạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567